Trải qua gần 95 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc luôn là nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam.
Gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đất nước phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn. Có được những thành tựu đó là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, kiên trì tư tưởng “trọng dân” và vận dụng sáng tạo bài học “Dân là gốc”, “Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong huy động sức mạnh nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trải qua các nhiệm kỳ, trong văn kiện Đại hội, Đảng ta đều tập trung nhấn mạnh vị trí, vai trò quan trọng của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quá trình đổi mới, chúng ta đã tạo được thế và lực của đất nước, nâng tầm vị thế quốc gia ở khu vực và trên trường quốc tế; với thời cơ, vận hội mới, chúng ta đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết và đang đứng trước cơ hội lịch sử đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập nước, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của nhân dân trong công cuộc đổi mới và chiến lược phát triển đất nước
Nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực nhà nước; là chỗ dựa vững chắc, là nguồn sức mạnh to lớn của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước được độc lập, thống nhất, chế độ mới được thiết lập. Đó là một chế độ mà “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân ” (1).
Quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, mối quan hệ chính trị - pháp lý “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” tiếp tục được xây dựng, ngày càng hoàn thiện. Nhân dân được đặt ở vị trí trung tâm của mọi chiến lược phát triển đất nước, của công cuộc đổi mới. Vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của nhân dân trong mọi chiến lược phát triển của đất nước trong thời kỳ mới được thể hiện trên những nội dung:
Lực lượng nhân dân và các phong trào cách mạng của nhân dân là nhân tố quyết định thành công và là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thực tiễn trong gần 40 năm đổi mới đất nước cho thấy, đường lối đổi mới của Đảng được hình thành có một phần từ sự sáng tạo trong lao động, ý chí vượt qua khó khăn của nhân dân ta. Đánh giá vị trí trung tâm của nhân dân và các phong trào thi đua yêu nước của nhân dân ta, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Sự thành công của công cuộc kháng chiến kiến quốc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta trong hơn 70 năm qua đã khẳng định giá trị đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta về thi đua yêu nước. Có thể nói mọi thành quả cách mạng nước ta đều gắn liền với việc tổ chức hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước” 2.
Vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển kinh tế
Là một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là “phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”3.
Điều đó có nghĩa là, không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội. Chính những nội dung đó đã thể hiện rõ nhất nhân dân Việt Nam là chủ thể, là trung tâm, mục tiêu phục vụ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhân dân là là trung tâm, chủ thể sáng tạo, gìn giữ, trao truyền và phát huy nền văn hóa dân tộc. Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân. Đây cũng là một nội dung, đặc trưng quan trọng trên con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phát triển văn hóa là một trong những vấn đề trọng tâm, nội dung nổi bật trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Quan điểm của Đảng ta và khẳng định, trọng tâm xây dựng và phát triển văn hóa là xây dựng con người có nhân cách và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; chú trọng mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế; xây dựng văn hóa trong Đảng và trong hệ thống chính trị; xây dựng văn hóa công chức, văn hóa công vụ, đặc biệt là đạo đức công vụ, chú trọng sự nêu gương của cán bộ, đảng viên... “chủ thể xây dựng và phát triển văn hóa là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đóng vai trò quan trọng”4. Nhân dân vừa là chủ thể vừa là đối tượng của việc tạo dựng thể chế bảo đảm công bằng về cơ hội và hưởng thụ về văn hóa.
Vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội tiếp tục được khẳng định
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội, “xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Gắn chính sách phát triển kinh tế với chính sách xã hội, quan tâm lĩnh vực công tác xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân”5, “Phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân với các chính sách phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân, bảo đảm trợ giúp cho các nhóm đối tượng yếu thế”6..
Thực thi có hiệu quả chính sách dân số và phát triển, nâng cao chất lượng dân số, nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, khám, chữa bệnh cho nhân dân7,... Ba định hướng trên mà Đại hội XIII của Đảng đề ra đã xác định rõ vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội của Đảng ta.
Vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân còn được thể hiện trong chính sách và hoạt động đối ngoại. Đó là quan điểm xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Đây chính là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước, thể hiện sự tiếp nối truyền thống “lấy dân là gốc” của dân tộc Việt Nam.
Sức mạnh của nhân dân được tập hợp và phát huy dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng đã làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Đổi mới, suy cho cùng, là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Mục tiêu cao cả và cụ thể của công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ là chăm lo, bảo vệ lợi ích tối cao, toàn diện của nhân dân và mục tiêu đó chỉ có thể đạt được nếu sức dân được bồi đắp ngày càng mạnh mẽ. Cũng bởi thế, để nhân dân khẳng định, phát huy tốt vị trí trung tâm và vai trò nền tảng của mình thì biện pháp căn cốt nhất, bền vững nhất là dưỡng sức dân.
Đảng ta đã quan tâm phát huy vai trò của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thể hiện rõ trên các khía cạnh, cụ thể:
Xây dựng, hoàn thiện cơ chế bảo đảm cho nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
Xác định trách nhiệm của nhân dân và của các tổ chức chính trị-xã hội của nhân dân; xác định những những nội dung, lĩnh vực mà nhân dân tham gia xây dựng Đảng; đề ra những quy trình, chuỗi công việc nhân dân tham gia xây dựng Đảng... Việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế sẽ tạo điều kiện cho hành động cách mạng của các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên được diễn ra một cách bài bản hơn, và điều đó tạo ra nền nếp thường xuyên trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nó chỉ ra được nội dung, phương thức, vị trí, vai trò, trách nhiệm cụ thể của Đảng ở các cấp nói riêng và các thành viên khác trong hệ thống chính trị nói chung, cũng như trách nhiệm của cán bộ, đảng viên; đồng thời, làm rõ thêm trách nhiệm của người dân. Căn cứ vào cơ chế này, các cấp ủy, tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên xây dựng cho mình chương trình, kế hoạch triển khai trong việc dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Nếu làm được như vậy, sẽ phòng và chống được căn bệnh hình thức, chiếu lệ, qua loa, đại khái, làm đối phó. Cơ chế này phải thường xuyên được xem xét, bổ cứu, bổ sung, hoàn thiện khi thực thi.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc bằng việc nhân dân tham gia đóng góp ý kiến về mọi mặt cho Đảng, trong đó có việc xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước
Đảng và chính quyền phải thật tâm lắng nghe ý kiến của nhân dân, tiếp thu những ý kiến phù hợp, nghĩa là phải thực sự có nghiên cứu, có tổng kết và đối thoại với nhân dân về những ý kiến nhân dân đóng góp với những hình thức phù hợp. Hiệu quả của công việc này sẽ được nâng lên rõ rệt nếu các tổ chức trong hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, đảng viên có tâm, có tầm khi triển khai trên thực tế.
Dựa vào dân trong việc dân giới thiệu những người ưu tú để Đảng xem xét kết nạp vào Đảng, vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý quan trọng ở các cấp của hệ thống chính trị
Sức mạnh, chất lượng của Đảng và hệ thống chính trị là sự tổng hợp từ nhiều yếu tố, trong đó có số lượng, đặc biệt là chất lượng của đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức của Đảng và Nhà nước. Tăng cường kiểm tra, giám sát để hệ thống chính trị xem xét đưa những phần tử yếu kém, tham nhũng, tiêu cực, cơ hội chính trị ra khỏi bộ máy, phải dựa vào dân để tạo nên những phong trào cách mạng, từ đó dân giới thiệu những người ưu tú thuộc các tầng lớp, các giới, các ngành, lĩnh vực, các lứa tuổi, các vùng... để tổ chức xem xét bổ sung lực lượng cho hệ thống chính trị.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phải có sự hướng đích cho mục tiêu
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới (như điều mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết trong Di chúc); Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mọi sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đều hướng véc-tơ lực như thế. Các biểu hiện chệch mục tiêu đó là làm yếu sức mạnh, như những hành vi dù nhỏ, chống lại sự phát triển bền vững đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; hành vi chia rẽ khối đại đoàn kết, khơi dậy hận thù, kỳ thị dân tộc, vùng miền, tôn giáo, (kể cả hận thù các dân tộc quốc tế). Không thể chấp nhận sức mạnh cố kết theo kiểu “lợi ích nhóm”, theo lối phường hội, gia đình, họ hàng gia tộc, cánh hẩu. Không thể chấp nhận sức mạnh nhân dân dùng vào việc đấu tranh biểu tình vụ lợi riêng, chống người thi hành công vụ, gây rối trật tự công cộng, xâm phạm an ninh quốc gia.
Phát huy cao độ vai trò chủ thể của nhân dân tham gia công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Thực tiễn qua các giai đoạn phát triển của đất nước, việc phát huy vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân, phát huy sức mạnh nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc luôn có sự đổi mới để đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, nhất là phát huy quyền làm chủ của nhân dân đã được cụ thể hóa với nhiều nội dung, hình thức phong phú, đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước: Nội dung phát huy vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân, phát huy sức mạnh nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được vận dụng, đổi mới theo hướng gồm nhiều chủ đề, vấn đề đáp ứng hơi thở thực tiễn cuộc sống: từ việc thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân cho đến việc vận động quần chúng nhân dân tuân thủ pháp luật, tích cực tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước hành động, liêm chính, phục vụ nhân dân, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước,... Đặc biệt, với việc đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở (nay là Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở), phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” và cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, đã tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trở thành trụ cột của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cùng với tiến trình đổi mới hệ thống chính trị, hệ thống dân vận của Đảng từng bước được củng cố, kiện toàn, phối hợp chặt chẽ với hệ thống các ban đảng, hệ thống Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, giữ vai trò hạt nhân trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy “"quốc bảo lòng dân”, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc Đổi mới.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy và chính quyền, những phong trào, như dân vận khéo, dân vận chính quyền,... với nhiều mô hình tiêu biểu, tấm gương điển hình tiên tiến đã có hiệu ứng lan tỏa sâu rộng, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, các nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, đơn vị. Nhờ những chủ trương đúng đắn về đổi mới nội dung và phương thức dân vận, chúng ta đã huy động được một nguồn lực to lớn trong nhân dân, phát huy được vai trò chủ thể, trung tâm của nhân dân, góp phần thực hiện các chương trình phát triển kinh tế-xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia, như Chương trình xây dựng nông thôn mới, phong trào thi đua “đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ hiện đại, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí”.
Nhân dân phát huy vai trò chủ thể của mình trong việc đóng góp ý kiến xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Lấy ý kiến nhân dân trong việc đóng góp xây dựng văn kiện Đại hội của Đảng là một công việc hệ trọng, nhằm tập hợp và phát huy trí tuệ, quyền làm chủ của nhân dân trong việc hoạch định đường lối, chủ trương, quyết sách quan trọng của đất nước, thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng là “Dân làm gốc”, mọi chính sách phát triển đều vì nhân dân; đồng thời, thể hiện trách nhiệm, tình cảm, tâm huyết của nhân dân, sự thống nhất giữa “Lòng Dân” với “Ý Đảng”.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng:
Ở mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng ta tiếp tục đưa ra những chỉ đạo cụ thể về việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Công việc này được triển khai bài bản, có hệ thống, nhất quán, quyết liệt từ Trung ương đến địa phương và đã đạt được những kết quả quan trọng. Cùng sự đồng thuận của nhân dân, niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ, sự vào cuộc quyết liệt của các cấp ủy, tổ chức đảng, Đảng ta đã thông qua nhân dân chủ động phát hiện, ngăn chặn và làm thất bại những âm mưu của các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá Đảng.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí:
Thực tiễn cho thấy sự đồng tình, ủng hộ, hưởng ứng, tham gia tích cực của nhân dân đã tạo nên sức mạnh và là động lực to lớn để cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí đạt được những kết quả quan trọng trong thời gian qua. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí tạo chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột phá, ngày càng đi vào chiều sâu, gắn kết giữa “xây” và “chống”. Các luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thanh tra, kiểm toán, tài chính công được sửa đổi, hoàn thiện, tạo tiền đề xây dựng cơ chế phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí toàn diện và sâu rộng. Đến nay, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí tiếp tục được đẩy mạnh, có nhiều chuyển biến mới, tích cực, đồng bộ, hiệu quả ở cả Trung ương và địa phương, đạt nhiều kết quả quan trọng, toàn diện, rõ nét, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao, được quốc tế ghi nhận; góp phần quan trọng vào việc củng cố niềm tin của nhân dân, tạo sự đồng thuận xã hội đối với Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, thời gian qua việc phát huy vai trò chủ thể, vai trò trung tâm của nhân nhân trong công cuộc đổi mới vẫn còn những hạn chế, bất cập. Một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, nhiều bức xúc của nhân dân chưa được giải quyết; quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi còn bị vi phạm. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức chưa được khắc phục có hiệu quả, làm giảm sút sức chiến đấu của Đảng và suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa được chú trọng, phát huy đầy đủ,... Những hạn chế đó làm cho “lòng dân”, hay nói cách khác là tư tưởng, tâm trạng của một bộ phận nhân dân có những bức xúc, gây ra ảnh hưởng tiêu cực tới sự đồng thuận xã hội, làm suy giảm sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, nhằm phát huy sức mạnh của nhân dân, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
Kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, là kỷ nguyên phát triển, xây dựng đất nước giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Để thực hiện mục tiêu đó, cần tập trung thực hiện một số nội dung cơ bản:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị và nhân dân về vị trí, tầm quan trọng của vai trò, vị trí của nhân dân, phát huy sức mạnh nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin và uy tín với nhân dân. Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Tiếp tục đổi mới công tác xây dựng Đảng về giáo dục chính trị, tư tưởng; tập trung xây dựng Đảng về đạo đức, tăng cường trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên; thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các giải pháp về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Chú trọng xây dựng đoàn kết, thống nhất trong Đảng, hệ thống chính trị và trong nhân dân. Nâng cao cảnh giác, chủ động nhận diện, phát hiện từ sớm, từ xa, ngăn chặn, đấu tranh, xử lý kịp thời âm mưu, thủ đoạn, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tăng cường đoàn kết trong Đảng, giữ vững vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hai là, đẩy mạnh thực hiện công tác dân vận theo Nghị quyết số 25-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 7 (khóa XI); quy chế công tác dân vận theo Quyết định số 23-QĐ/TW, của Bộ Chính trị, tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc và những kiến nghị chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền; đổi mới và đa dạng hóa hình thức tuyên truyền về truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc cho cán bộ, đảng viên, hội viên và nhân dân; kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền, giáo dục truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc với tuyên truyền về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu phát triển, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. Đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động tuyên truyền, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác vận động quần chúng, thông qua đoàn kết, tập hợp đoàn viên, hội viên để nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân, những biến đổi trong cơ cấu và giai tầng xã hội đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới.
Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đẩy mạnh cải cách hành chính và phát huy dân chủ.
Tiếp tục hoàn thiện chủ trương, chính sách về phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới; phát huy vai trò của các giai tầng xã hội; khơi dậy mọi tiềm năng, sức sáng tạo của mỗi người Việt Nam, góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đổi mới và tăng cường việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước kịp thời, hợp lòng dân để nhân dân được phát huy quyền làm chủ trên thực tế. Tăng cường công tác dân vận của các cơ quan nhà nước; xây dựng quy định cụ thể để chính quyền làm công tác dân vận hiệu quả.
Bốn là, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội và các hội quần chúng.
Đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24/11/2023, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực sự là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; bảo đảm hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động với các tổ chức thành viên. Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động, đoàn kết nhân dân, trọng tâm là địa bàn cơ sở đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới và nguyện vọng chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân.
Năm là, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân.
Xây dựng cơ chế, chính sách để phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân; phát huy vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; về đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển đất nước. Tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở và phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng" trong tất cả các loại hình tổ chức và đơn vị cơ sở. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng cơ chế phù hợp để nhân dân tham gia ý kiến vào quá trình hoạch định chính sách, quyết định những vấn đề lớn và quan trọng của đất nước, những vấn đề có liên quan mật thiết đến cuộc sống của người dân; nêu cao tinh thần cầu thị, tiếp thu, trách nhiệm thông tin, giải trình của các cơ quan nhà nước đối với những kiến nghị, đề xuất của nhân dân theo quy định. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong xã hội; tăng cường đồng thuận xã hội, gắn với đề cao ý thức trách nhiệm của công dân; xử lý nghiêm hành vi lợi dụng dân chủ để chống phá Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sớm bổ sung quy định về trách nhiệm công dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Sáu là, tập trung nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, các tầng lớp nhân dân quán triệt đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về bài học “Dân là gốc”, “Dân là chủ”, không ngừng nâng cao nhận thức và tổ chức thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thể hiện sự quyết tâm cao trong việc chăm lo và cải thiện đời sống của nhân dân, coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, tạo động lực để nhân dân thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, nhất là thực hiện có hiệu quả 3 Chương trình mục tiêu quốc gia, đem lại kết quả thiết thực, thực chất cho người dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn... Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế-xã hội; hoàn thiện, bổ sung cơ chế, chính sách đặc thù, bảo đảm các nhóm yếu thế được tiếp cận đầy đủ dịch vụ xã hội cơ bản. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy hoạch, đầu tư nâng cấp hệ thống an sinh xã hội bảo đảm tính đa dạng, toàn diện, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực của Nhà nước. Đa dạng hóa các nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa, thực hiện công khai, minh bạch trong khai thác, quản lý, sử dụng nguồn lực thực hiện chính sách xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội. Không ngừng xây dựng, bồi đắp ý thức chính trị, năng lực thực hiện quyền con người, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tạo cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp và người dân nâng cao tiềm lực vật chất, tài chính, thích ứng được với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, bao gồm cả chính sách “khoan thư sức dân”, bồi dưỡng sức dân “không để ai bị bỏ lại phía sau”, nâng cao chất lượng nguồn lực con người.
Bảy là, phát huy vai trò, trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và góp ý cho cán bộ, đảng viên. Tuyên truyền, vận động và tạo điều kiện để nhân dân hiểu và chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt nghĩa vụ và quyền công dân. Tạo điều kiện để nhân dân đề đạt tâm tư, nguyện vọng chính đáng với Đảng, Nhà nước; phát triển năng lực “làm chủ”; biết sử dụng quyền làm chủ và thể hiện quyền làm chủ trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế-chính trị-xã hội và biết cách bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình.
Tám là, đề cao trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu, lãnh đạo chủ chốt, cán bộ, đảng viên; xây dựng và thực hiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị.
Đưa việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” đi vào chiều sâu, gắn với các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở từng địa phương, đơn vị; gắn kết chặt chẽ việc thực hỉện Chỉ thị số 05-CT/TW, với việc tự phê bình và phê bình trong thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW khóa XI, XII, XIII, góp xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Chú trọng khâu nhận diện và xác định những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyến hóa” trong nội bộ, từng bước khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; phát huy tinh thần đấu tranh, kiên quyết bảo vệ cái đúng, phản bác, loại trừ cái sai, biểu hiện lệch lạc. Kiên quyết chống những biểu hiện vi phạm chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
TS. Phạm Tất Thắng - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực,
Chủ tịch Hội đồng khoa học Ban Dân vận Trung ương