1. Thành lập Hội Việt - Mỹ (The VietNam - USA society, 17-10-1945)
Việt-Mỹ thân hữu Hội, tiền thân của Hội Việt-Mỹ ngày nay được thành lập
ngày 17-10-1945, chỉ 45 ngày sau khi đất nước giành được độc lập. Hội là
tổ chức hữu nghị song phương đầu tiên ở nước ta. Đã có 2 thời kỳ (ngay
sau khi được thành lập và những năm dài kháng chiến chống Mỹ). Hội
Việt-Mỹ có cơ cấu, bộ máy làm việc như một cơ quan độc lập tương đối.
Ngay sau khi được thành lập, Hội có cơ quan ngôn luận
riêng; có tạp chí bằng hai thứ tiếng, có chương trình phát thanh chuyên
đề để giới thiệu về đất nước, con người và văn hoá Việt Nam với nhân
dân Mỹ. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, từ cuối 1966, Nhóm công tác
chuyên trách về vận động nhân dân Mỹ được thành lập và đến năm 1967, Ban
Mỹ vận gồm 40 cán bộ, có kinh phí và bộ máy hoạt động riêng, được thành
lập. Do đòi hỏi khách quan của mối quan hệ nhân dân 2 nước, ngày
10-7-1968, Ủy ban Việt Nam đoàn kết với nhân dân Mỹ, gọi tắt là Ủy ban
Việt-Mỹ được chính thức thành lập.
Tháng 10-1992, để đón bắt những biến đổi sắp đến trong quan hệ Việt-Mỹ,
Hội được chính thức đổi tên từ “Uỷ ban Việt Nam đoàn kết với nhân dân
Mỹ” thành Hội Việt-Mỹ. Các đối tác nước ngoài cuả Hội là những tổ chức
xã hội - chính trị phi chính phủ, phi lợi nhuận, cựu chiến binh, giáo
dục... của Mỹ.
2. Ngày mất của cụ Nguyễn Văn Tố (7-10-1947).
Cụ Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố sinh ngày 5-6-1889, trong một gia đình nho
giáo, tại làng Đông Thành, huyện Thọ Xương cũ (Hà Nội), nay là 78 phố
Bát Sứ, quận Hoàn Kiếm. Tốt nghiệp tr¬ường Thông ngôn, cụ làm nhân viên
phụ tá, sau lên chức Chủ sự Học viện Viễn Đông Bác Cổ. Cụ còn viết cho
các báo chí tiếng Việt và tiếng Pháp…; soạn thảo hai bộ sử đồ sộ là “Đại
Nam dật sử” và “Sử ta so với sử Tàu” rất công phu (cụ hy sinh nên bộ
“Sử ta so với sử Tàu” còn dang dở).
Cụ không những uyên thâm Hán học mà tinh thông cả Tây học. Cụ đã cùng
một số trí thức đầu thế kỷ XX phát động công cuộc Cách mạng chữ quốc
ngữ, vì khi đó trình độ dân trí còn rất thấp. Đầu năm 1938, Xứ ủy Bắc kỳ
quyết định vận động một tổ chức công khai chống nạn mù chữ và thành lập
Hội truyền bá quốc ngữ, đặt trụ sở tại Hội quán Trí Tri số nhà 59, nay
là 47 phố Hàng Quạt (phố Hàng Đàn cũ), cụ được cử làm Hội trưởng.
Cách mạng Tháng Tám thành công, cụ nhậm chức Bộ trưởng Cứu tế - Xã hội
(nay là Bộ LĐ-TB-XH), là đại biểu Quốc hội. Ngày 2-3-1946, trong kỳ họp
thứ nhất Quốc hội khóa I, cụ được bầu làm Trưởng ban Thường trực Quốc
hội (tức Chủ tịch Quốc hội) cho đến ngày 8-11-1946. Ngày 3-11-1946, cụ
lại giữ chức Bộ trưởng không bộ trong Chính phủ.
Ngày 7-10-1947, cụ hy sinh khi giặc Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn, âm mưu tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta.
3. Trung ương Đảng đề ra 4 điều kiện để thống nhất Việt Minh - Liên Việt (9-10-1949)
Ngày 9-10-1949, Ban Thường vụ TƯ Đảng đã nhận định: Việc chuẩn bị thống
nhất Việt Minh - Liên Việt ở toàn quốc tiến hành không đều, có địa
phương làm xong, có địa phương chưa xong. Mặc dù đại hội toàn quốc của
Việt Minh và Liên Việt hoãn lại và việc thống nhất chưa được chính thức
quyết định, nhưng có thể thực hiện ngay việc thống nhất ở những địa
phương có đủ 4 điều kiện sau đây:
- Hai bên Việt Minh và Liên Việt đã từng thực tế hành động chung.
- Đoàn viên hai bên và nhân dân ở địa phương đã được giải thích và hiểu rõ cần phải thống nhất Việt Minh và Liên Việt .
- Các đoàn thể trong Việt Minh đã được củng cố và thống nhất đến cấp địa phương đó.
- Việc sắp xếp cán bộ để lập Ban Chấp hành Liên Việt mới đã làm xong.
Ở những địa phương chưa có đủ 4 điều kiện trên, cần xúc tiến việc chuẩn
bị thống nhất, theo đúng những chỉ thị trước đây của TƯ về vấn đề này.
Khi điều kiện chín muồi, từ ngày 3 đến 7-3-1951, Đại hội toàn quốc hợp
nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thành Mặt trận Liên hiệp Quốc
dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt) được tiến hành. Đại hội đã
ấn định Chính cương, Điều lệ mới của Mặt trận Liên Việt theo phương
châm: Đảm bảo sự đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân yêu nước để đẩy
mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và bọn tay sai.
Đại hội thống nhất Mặt trận Việt Minh và Liên Việt đã củng cố và tăng
cường khối đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công nông vững chắc, do
giai cấp công nhân lãnh đạo, đánh dấu cuộc kháng chiến, kiến quốc của
nhân dân ta bước sang giai đoạn mới.
4. Lễ kết nghĩa Hà Nội - Huế - Sài Gòn (8-10-1960)
Trong thời kỳ đất nước bị chia cắt, phong trào kết nghĩa giữa các tỉnh,
thành phố ở 2 miền Nam - Bắc đã diễn ra sôi nổi, biểu thị tình đoàn kết
và ý chí sắt đá đấu tranh vì sự nghiệp thống nhất nước nhà. Lễ kết nghĩa
giữa 3 thành phố Hà Nội - Huế - Sài Gòn diễn ra với sự góp mặt của hơn
1.000 đại biểu của nhân dân thủ đô Hà Nội và hai Hội đồng hương Huế, Sài
Gòn. Trong lễ kết nghĩa, Chủ tịch Trần Duy Hưng thay mặt nhân dân Hà
Nội; ông Nguyễn Hộ, thay mặt nhân dân Sài Gòn - Gia Định; ông Hoàng
Phương Thảo, thay mặt nhân dân Huế và tất cả anh chị em đồng hương Sài
Gòn và Huế đã đặc biệt nhấn mạnh mối tình đoàn kết keo sơn, gắn bó giữa
nhân dân Hà Nội, Huế, Sài Gòn nói riêng và nhân dân cả nước ta nói
chung, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cuộc đấu
tranh giải phóng ở miền Nam, với khát vọng thống nhất đất nước.
Sự gắn kết đó là minh chứng hùng hồn cho tất yếu lịch sử đã trở thành
chân lý của dân tộc Việt Nam, từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
"Nước Việt Nam ta là một/ Dân tộc Việt Nam ta là một/ Dù cho sông cạn
đá mòn/ Nhân dân Nam Bắc là con một nhà".
Ngày nay, ba địa phương Hà Nội, Thừa Thiên - Huế, Sài Gòn - TP Hồ Chí
Minh đang nối tiếp truyền thống quý báu "là cây một cội, là con một
nhà", đã và đang kề vai sát cánh, đẩy mạnh giao lưu và hợp tác toàn diện
trên tất cả các lĩnh vực, cùng cả nước quyết tâm thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
5. Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố bài viết "Mặt trận thống nhất phản đế giữa nhân dân Việt - Mỹ” (24-10-1965)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, được nhân dân yêu
chuộng hoà bình trên toàn thế giới ủng hộ. Ngay tại nước Mỹ, có Phong
trào phối hợp hành động chống đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, gồm 200 tổ
chức quần chúng thuộc hầu hết các bang ở Hoa Kỳ, do “Uỷ ban Phối hợp
toàn quốc đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược ở Việt Nam” lãnh
đạo. Cuộc đấu tranh diễn ra bằng nhiều hình thức và quyết liệt, như:
cuộc biểu tình của 10 vạn người ở 60 thành phố trong ngày Quốc tế phản
đối chiến tranh xâm lược của Mỹ (15-17.10.1965), do “Uỷ ban Ngày Việt
Nam” tổ chức; “Tuần lễ chống chiến tranh xâm lược Việt Nam” (10.1967)
của 200 nghìn người khắp nước Mỹ tập trung về Oasinhtơn, có 16 vụ tự
thiêu. Năm 1968, gần 50 nghìn thanh niên trốn lính, gần 1.000 trường cao
đẳng và đại học tổng bãi khoá, gần 300 nghìn công nhân ngành hàng
không, ngành điện... đình công. Đỉnh cao là phong trào bạo động gần như
nội chiến tại 100 thành phố của nước Mỹ (ngày 7.8.1966). Phong trào nhân
dân Mỹ chống Mỹ xâm lược Việt Nam là sự ủng hộ mạnh mẽ, thiết thực, có
hiệu quả đối với Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ngay từ tháng 10-1965, khi phong trào mới bắt đầu manh nha, bằng nhãn
quan chính trị sâu sắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định về hình thái
của Mặt trận thống nhất phản đế giữa hai dân tộc. Người chỉ rõ: "Mặt
trận này tuy chưa xây dựng về hình thức, nhưng thực tế đã hình thành
bằng hành động và tinh thần". Người phân tích, nhân dân Mỹ đã nhận rõ
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam là có hại cho họ, cho nên muốn giữ
gìn quyền lợi chính đáng của họ thì cần phải ủng hộ cuộc kháng chiến
chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Người kết luận: “Nhân dân Mỹ đánh từ trong ra, nhân dân ta đánh từ ngoài
vào. Hai bên giáp công mạnh mẽ thì đế quốc Mỹ nhất định sẽ thua, nhân
dân Việt - Mỹ nhất định sẽ thắng. Đó sẽ là thắng lợi vẻ vang của Mặt
trận thống nhất nhân dân hai nước, mà cũng là thắng lợi chung của loài
người yêu chuộng chính nghĩa và hoà bình”.
Toàn Trực (Biên soạn)