Một số giải pháp trong công tác giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

02/08/2023 - 04:46 PM
Thời gian qua, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm đến hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, thể chế thành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo cơ sở chính trị, pháp lý cho việc tổ chức thực hiện. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác giám sát và phản biện xã hội còn những hạn chế, hiệu quả chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Bài viết đưa ra những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng công tác giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời gian tới.

Vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được khẳng định tại Điều 9 Hiến pháp 2013, quy định hoạt động giám sát của Mặt trận là "giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước".

Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ngày 9/6/2015, đã thể chế hóa Hiến pháp 2013, quy định rõ những vấn đề cơ bản về hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại các Điều từ 25 đến 29. Cụ thể là:

1. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách, pháp luật.

2. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính xã hội; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.

3. Hoạt động giám sát được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm phát huy dân chủ, sự tham gia của Nhân dân, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng của Nhân dân; thực hiện công khai, minh bạch, không chồng chéo; không làm cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát.

4. Đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan nhà nước, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức.

5. Nội dung giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc thực hiện chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

 6. Hình thức giám sát của Mặt trận là: Nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tổ chức đoàn giám sát; thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân được thành lập ở cấp xã, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng; tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức Hội nghị trực tuyến sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTƯMTTQVN ngày 15/6/2017 quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

 

Về quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động giám sát được quy định tại Điều 28 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như sau:

Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng chương trình, nội dung, kế hoạch giám sát; quyết định thành lập đoàn giám sát và tổ chức hoạt động giám sát theo kế hoạch hoặc khi cần thiết.

Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát báo cáo bằng văn bản, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung giám sát. Xem xét khách quan, khoa học những vấn đề liên quan đến nội dung giám sát.

Tổ chức đối thoại để làm rõ nội dung kiến nghị sau giám sát khi cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát.

Kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét áp dụng các biện pháp để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân; đề nghị xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.

Ban hành hoặc phối hợp với cơ quan, tổ chức liên quan ban hành văn bản về kết quả giám sát; chịu trách nhiệm về những nội dung kiến nghị sau giám sát. Theo dõi, đôn đốc việc giải quyết kiến nghị sau giám sát; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân không giải quyết hoặc giải quyết không đúng quy định của pháp luật.

Khen thưởng hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền biểu dương, khen thưởng người có thành tích trong hoạt động giám sát.

Về quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát được quy định tại Điều 29 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như sau:

Được thông báo trước về nội dung, kế hoạch giám sát. Báo cáo bằng văn bản theo nội dung giám sát; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung giám sát; báo cáo bổ sung, làm rõ những vấn đề liên quan.

Trình bày ý kiến về các nội dung liên quan thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Đề nghị xem xét lại kiến nghị sau giám sát, đối thoại để làm rõ nội dung các kiến nghị đó khi cần thiết. Tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện giám sát.

Xem xét, giải quyết và trả lời những nội dung kiến nghị sau giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thực hiện kết luận, quyết định giải quyết của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành liên quan đến những nội dung kiến nghị giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Như vậy, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước, nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện bằng các hình thức: Động viên Nhân dân thực hiện quyền giám sát; Tham gia hoạt động giám sát với cơ quan quyền lực nhà nước; Thông qua hoạt động của mình, tổng hợp ý kiến của Nhân dân và các thành viên của Mặt trận kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biểu dương, khen thưởng người tốt, việc tốt, xem xét, giải quyết, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật.

Cùng với những quy định giám sát trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhiều đạo luật khác có liên quan đã thể chế hóa quyền giám sát của Mặt trận trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã chủ động phối hợp với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành từng bước cụ thể hóa thành cơ chế giám sát trong một số đối tượng, chuyên ngành thông qua việc xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết liên tịch. Đây là hoạt động giám sát được pháp luật quy định tương đối đầy đủ về cơ chế, chính sách, pháp luật, thể hiện quyền giám sát của Nhân dân và vai trò tổ chức, chỉ đạo hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như: Luật Thanh tra, Luật Đầu tư công và các văn bản dưới luật ghi nhận giám sát của Nhân dân thông qua Ban Thanh tra nhân dân như Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về giám sát đầu tư của cộng đồng...

Giám sát của Mặt trận không mang tính quyền lực, là giám sát mang tính nhân dân, Mặt trận đại diện cho một bộ phận nhân dân tham gia giám sát với cơ chế theo dõi - phát hiện - kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét giải quyết nhằm thể hiện đường lối của Đảng về mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước.

Tiếp tục thể chế hoá và cụ thể hoá cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Từ năm 2014 đến năm 2021, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì phối hợp với các tổ chức thành viên của Mặt trận xây dựng, ký kết 12 chương trình phối hợp về giám sát và tổ chức triển khai thực hiện nhiều chương trình giám sát liên ngành với sự tham gia của các cơ quan nhà nước hữu quan với đại diện các tổ chức thành viên, như: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật, Hội Luật gia Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam...

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ba cấp ở 63 tỉnh, thành phố đã chủ trì tổ chức 107.592 cuộc giám sát. Trong đó cấp tỉnh, chủ trì giám sát được 1.571 cuộc; cấp huyện, chủ trì giám sát được 10.873 cuộc; cấp xã, chủ trì giám sát được 95.148 cuộc. Nội dung giám sát tập trung vào giải quyết những bức xúc, đòi hỏi của đông đảo Nhân dân như: Giám sát hỗ trợ và huy động xây dựng nông thôn mới, thực hiện chính sách người có công; giám sát và nâng cao hiệu quả việc giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở; giám sát việc công khai kết luận thanh tra; giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ sở y tế; giám sát bảo đảm an toàn thực phẩm; phối hợp giám sát việc thực hiện pháp luật về sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp; chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng; việc bố trí tái định cư và tạm cư cho người dân có nhà, đất bị thu hồi; việc thực hiện quy hoạch, dự án còn để kéo dài nhiều năm; về công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; tổng rà soát chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng; thực hiện đưa người đi cai nghiện ma túy...

Cùng với việc thực hiện công tác giám sát, công tác phản biện cũng được Mặt trận các cấp quan tâm phối hợp triển khai thực hiện. Nhằm tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, Bộ Chính trị ban hành Quyết định 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

Đối tượng góp ý xây dựng Đảng là: Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các ban đảng Trung ương; các đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng uỷ trực thuộc Trung ương. Ban chấp hành, Ban Thường vụ, Thường trực cấp uỷ các cấp; các đảng đoàn, Ban cán sự đảng, đảng uỷ trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ; các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ các cơ quan đảng ở các cấp; chi uỷ, chi bộ và cán bộ, đảng viên.

Đối tượng góp ý xây dựng chính quyền là: Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp. Chính phủ, lãnh đạo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Lãnh đạo Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp, Kiểm toán Nhà nước. Cán bộ, công chức, viên chức (gọi chung là cá nhân).

Trong 5 năm qua, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức phản biện xã hội đối với nhiều dự thảo các văn bản quan trọng của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền khác như: Tham gia xây dựng Hiến pháp 2013; Dự án Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 9/6/2015), Dự án Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; Dự án Luật về Hội, dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể của Bộ Giáo dục và Đào tạo; tổ chức Hội nghị phản biện xã hội đối với Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, Dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi); Dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.

Nghị quyết 1134/2016/UBTVQH13 quy định chi tiết, hướng dẫn về việc tổ chức hội nghị cử tri; việc giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã, thôn, tổ dân phố; việc hiệp thương giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trong bầu cử bổ sung; Nghị quyết liên tịch số 11/2016/UBTVQH-CP-ĐCTUBTWMTTQVN về việc hướng dẫn quy trình hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021.

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tập trung vào hoạt động tập hợp, lấy ý kiến Nhân dân, góp ý, phản biện vào dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; tổ chức một số hội nghị phản biện đối với những dự thảo quan trọng có tác động lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đến công tác dân tộc, tôn giáo. Nhiều hội nghị phản biện xã hội với quy mô và chất lượng đi vào chiều sâu, hiệu quả, các kiến nghị phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được dư luận đánh giá cao, nhiều nội dung phản biện được cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu và có ý kiến phản hồi tích cực.

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp ở địa phương tổ chức 46.406 cuộc góp ý, phản biện xã hội, trong đó cấp tỉnh, chủ trì phản biện xã hội được 784 cuộc; cấp huyện, chủ trì phản biện xã hội được 4.043 cuộc; cấp xã, chủ trì phản biện xã hội được 25.834 cuộc. Nội dung phản biện tập trung vào các dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân, chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội của Ủy ban nhân dân các cấp như: Quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, góp ý dự thảo Quyết định quy định chính sách hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất cho người dân sau tái định cư các dự án thủy lợi, thủy điện; Đề án bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù... 32.064 lượt tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác giám sát và phản biện xã hội còn những hạn chế, nhiều nơi còn lúng túng trong lựa chọn nội dung giám sát và phản biện xã hội; chưa đưa ra được tiêu chí để lựa chọn nội dung giám sát và phản biện xã hội phù hợp; kết quả giám sát và phản biện xã hội chưa đều; phản biện còn mang tính góp ý; một số nơi làm còn hình thức, thụ động chưa rõ vai trò của chủ thể giám sát, phản biện xã hội; còn biểu hiện nể nang, né tránh, ngại va chạm, làm cho xong, chưa dám nêu chính kiến của mình; kỹ năng năng lực trình độ cán bộ còn hạn chế; việc theo dõi thực hiện sau giám sát và phản biện xã hội có nơi làm chưa tốt.

Những hạn chế này do phạm vi giám sát và phản biện xã hội quá rộng, yêu cầu chất lượng cao nhưng nguồn lực con người và điều kiện vật chất của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn chưa tương xứng; nhận thức của cán bộ Mặt trận và đối tượng được giám sát của cấp ủy, chính quyền còn nhiều biểu hiện chưa nhận thức đúng, chưa tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện nhiệm vụ này; việc triển khai ở một số nơi còn nhiều nội dung, kiến nghị dàn trải; một số cấp, ngành chưa quan tâm thực hiện kiến nghị; Mặt trận chưa giám sát thực hiện kiến nghị sau giám sát và chưa có quy trình, mẫu biểu để tổng hợp báo cáo giám sát và phản biện xã hội trong hệ thống Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội và các tổ chức thành viên của Mặt trận.

Những văn bản góp ý do Mặt trận và các tổ chức thành viên của Mặt trận gửi đến các cơ quan hữu quan chủ trì soạn thảo, do không có cơ chế cụ thể nên việc góp ý chỉ là một chiều và hình thức, thiếu cơ chế về trách nhiệm phản hồi; các cơ quan chủ trì soạn thảo có tiếp thu hay không, tiếp thu ở mức độ nào thì cơ quan gửi văn bản góp ý kiến không được biết. Thời gian gửi lấy ý kiến thường rất gấp không đảm bảo quy trình, hồ sơ, tài liệu lấy ý kiến nhiều dự án không đầy đủ, sơ sài, thiếu các thông tin cần thiết...

Để tiếp tục nâng cao vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận trong thời gian tới, Mặt trận các cấp cần phải:

1. Tăng cường sự phối hợp với các tổ chức thành viên của Mặt trận, các cơ quan báo chí tổ chức giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức nhà nước. Phối hợp với Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội tổ chức phối hợp giám sát; kết hợp giữa giám sát quyền lực nhà nước, với giám sát nhân dân theo Nghị quyết của Quốc hội về chương trình giám sát, để cùng thống nhất ý kiến, kiến nghị với Đảng, Nhà nước và Quốc hội.

2. Nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng, động viên Nhân dân tích cực giám sát để phòng ngừa, phát hiện những hành vi tham nhũng, lãng phí, nhất là những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng cần tập trung giám sát, trước hết là quản lý đất đai, đầu tư xây dựng, quản lý tài sản nhà nước, đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư khi thu hồi đất, cấp phép xây dựng, kinh doanh, thu chi các loại phí, lệ phí, các khoản đóng góp của Nhân dân và những biểu hiện lãng phí trong tiếp khách, hội nghị, mít tinh kỷ niệm, tổ chức đón nhận danh hiệu thi đua, mua sắm sử dụng xe công, xây trụ sở, lãng phí tài sản đất đai trong đầu tư xây dựng…

3. Thu hút sự tham gia đông đảo của các tổ chức, các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý, các nhà hoạt động xã hội... tham gia vào quy trình xây dựng pháp luật thông qua công tác phản biện xã hội để nâng cao chất lượng của các văn bản pháp luật và thu hút thực chất sự tham gia đông đảo các các tầng lớp nhân dân vào quá trình xây dựng pháp luật để pháp luật thực sự gần dân, của dân và vì dân thể hiện đầy đủ ý nguyện của các tầng lớp nhân dân.

4. Tăng cường tính chủ động của Mặt trận và các thành viên của Mặt trận trong việc kiến nghị với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chính phủ, các bộ, ngành liên quan xem xét hủy bỏ những văn bản pháp luật không còn phù hợp với thực tiễn hoặc những văn bản cần sửa đổi, bổ sung. Sự chủ động cần diễn ra liên tục, tránh tình trạng tham gia xây dựng pháp luật chỉ được tiến hành khi được các cơ quan nhà nước yêu cầu như hiện nay. Cần quán triệt tinh thần xây dựng pháp luật không chỉ là công việc của Nhà nước, mà còn là công việc của toàn xã hội, trừ các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật Nhà nước.

5. Cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ soạn thảo văn bản cũng như nâng cao tinh thần trách nhiệm cho đội ngũ làm công tác Mặt trận, để làm cơ sở giúp cán bộ làm công tác Mặt trận khi được giao góp ý văn bản hoặc xây dựng văn bản, tránh được những sai sót của chính mình và nâng cao chất lượng giám sát, phản biện các văn bản của các cơ quan khác...

Theo Tapchimattran


Các tin tức khác
danh mục tin tức
Kết quả bình chọn Hàng Việt Nam được người tiêu dùng yêu thích 2020