Đoàn kết dân tộc theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

19/01/2020 - 03:18 PM
Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, mọi đường lối, chủ trương của Đảng đều xuất phát từ dân, dựa vào dân mà thực hiện. Trong bối cảnh mới, Đảng và Nhà nước cần nhanh chóng thể chế hóa vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của Mặt trận trong việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội, xây dựng cơ chế về mối quan hệ giữa Mặt trận với cơ quan nhà nước, tạo thuận lợi và chủ động cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc phát huy vai trò đại diện nhân dân.
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã thành công trong xây dựng được khối đoàn kết dân tộc rộng rãi, đưa cách mạng nước ta vượt qua mọi thử thách, giành thắng lợi trong cả sự nghiệp giải phóng và phục hưng dân tộc. Đó là minh chứng sinh động trong tổng kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về "lực lượng đoàn kết của nhân dân ta là vô địch", "đã giúp cách mạng Tháng Tám thành công","giúp kháng chiến thắng lợi" và “sẽ làm trọn nhiệm vụ vẻ vang là giúp xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, đoàn kết dân tộc vừa là động lực của cách mạng giải phóng dân tộc, vừa là mục tiêu của công cuộc xây dựng xã hội mới, trong đó cả dân tộc đoàn kết, thống nhất trong ngôi nhà phồn vinh, văn minh và hạnh phúc của chủ nghĩa xã hội.
Thực tế ở nhiều quốc gia trong cuối thế kỷ XX đã cho thấy, ở nơi nào lực lượng tiên phong giữ vững được ngọn cờ đoàn kết toàn dân, tạo ra những chất liệu gắn kết vững chắc khối đoàn kết dân tộc thì giữ vững được vị trí lãnh đạo của mình, ổn định được xã hội, đưa đất nước tiến lên. Tình hình sẽ là ngược lại đối với những nơi khối đoàn kết toàn dân bị phá vỡ, bị kẻ thù lợi dụng.
Thực tiễn lịch sử đó chứng tỏ, đoàn kết dân tộc là yếu tố căn bản và chắc chắn nhất để đối phó thắng lợi với tất cả các sự biến trong hiện tại và tương lai và khẳng định sự đúng đắn, giá trị thời đại sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong tiến trình giải phóng, bảo vệ Tổ quốc và phục hưng dân tộc. Sự thật lịch sử của dân tộc ta trong thế kỷ XX, cũng như thực tiễn của thế giới trong những năm kết thúc thiên niên kỷ thứ hai và những diễn biến của thế giới trong hai thập niên đầu của thiên niên kỷ thứ ba đã minh chứng hơn nữa vai trò của khối đoàn kết dân tộc.
Đoàn kết dân tộc vẫn mãi là điều kiện quan trọng nhất cho sự tồn vong và phục hưng dân tộc trước mọi sự biến trên hành tinh của chúng ta. Tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn đúng và mới trong sự vận động đầy kịch tính của thế giới ngày nay.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhiệm vụ đoàn kết dân tộc phải được xác định trên cơ sở những biến đổi thực tế trong và ngoài nước. Ngày nay, chúng ta có thể thấy nổi bật lên một số vấn đề chủ yếu sau đây:
Một là, từ đòi hỏi sống còn là giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước là chủ yếu sang nhu cầu phục hưng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc đã hình thành những điều kiện mới cho khối đoàn kết dân tộc: chiến tranh sang hoà bình và giải phóng sang dựng xây đất nước trong bối cảnh mới rất phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế.
Hai là, cơ sở kinh tế - xã hội của khối đoàn kết toàn dân đã có những đổi thay: từ nền kinh tế thuộc địa, kinh tế bao cấp thời chiến chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những quy luật vận động hết sức phức tạp và mới mẻ; từ chỗ là một liên minh chính trị của những thuộc dân nô lệ có chung một khát vọng giải phóng chuyển sang xã hội kinh tế thị trường, với sự phân hoá nhanh, làm thay đổi cả cơ cấu giai cấp, sự phân cách về đời sống giữa các tầng lớp trong xã hội, các khu vực địa lí và cư dân có chiều hướng ngày càng gia tăng.
Ba là, tình hình quốc tế vận động rất nhanh chóng và phức tạp hơn bao giờ hết: sự tan vỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, một trật tự thế giới mới chưa được hình thành, làm gia tăng các cuộc chiến tranh, xung đột dưới mọi màu sắc, đang đặt các dân tộc trước nhiều hiểm hoạ, thách thức không chỉ là giữa chiến tranh hay hoà bình, mà trên tất cả các lĩnh vực trong sự chằng chéo, phức tạp của quan hệ quốc tế hiện nay.
Căn cứ vào những đổi thay của tình hình trong nước và quốc tế, vận dụng tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải làm rõ những mục tiêu, nhiệm vụ của đoàn kết dân tộc, nhằm thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc ở tầm cao và chất lượng mới. Nhưng, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, khi xây dựng đường lối, chính sách cũng phải nắm vững chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: phải chú ý tới nguyện vọng chung của nhân dân. Vì theo Người: “Việc gì đúng với nguyện vọng nhân dân thì được quần chúng nhân dân ủng hộ, và như vậy mới thật là phong trào quần chúng”. Do đó, phải xây dựng “cương lĩnh đại đoàn kết, mục đích của nó là đấu tranh cho hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước”,“rất vững chắc, rất rộng rãi và rất thiết thực”.
Vững chắc vì "dựa trên nền tối đại đa số nhân dân trong nước là đồng bào công nhân và đồng bào nông dân; đồng thời chú trọng tới tất cả các tầng lớp xã hội trong nước ta, không bỏ sót ai”.
Rộng rãi vì “đoàn kết tất cả những người yêu nước, không phân biệt xu hướng chính trị, tín ngưỡng tôn giáo”.
“Thiết thực vì nó phù hợp với nguyện vọng thiết tha của toàn thể đồng bào từ Bắc đến Nam”...
Bởi vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong xây dựng “Chương trình phải giản đơn và thiết thực... gồm những điểm chung cho toàn thể dân tộc và những điểm đấu tranh cho quyền lợi của công nhân, nông dân và cho mọi tầng lớp nhân dân”.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những điểm chung và cũng là tiêu chí bất biến của nhà nước ta là Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Trong từng giai đoạn lịch sử, tiêu chí đó được thể hiện thành những điểm chung, mục tiêu cụ thể: Từ 1945 đến 1954 là xây dựng nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, phú cường; từ sau năm 1954 là toàn dân ta phấn đấu thực hiện nước Việt Nam hoà bình thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh. Ngày nay, trong bối cảnh lịch sử mới, Đảng ta chỉ rõ, trên cơ sở giữ vững hòa bình, độc lập dân tộc, lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng. Mục tiêu đó là tiếp tục thực hiện tiêu chí chung, mục tiêu bất biến của dân tộc ta mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra từ khi khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Trong điều kiện ngày nay, nắm vững mục tiêu chung là Độc lập dân tộc, vì Tự do - Hạnh phúc của nhân dân để giải quyết đúng mối quan hệ lợi ích theo nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất cao độ giữa lợi ích quốc gia, dân tộc - lợi ích cộng đồng với lợi ích gia đình, cá nhân, giải quyết mối quan hệ dân tộc - giai cấp và mối quan hệ giữa dân giàu - nước mạnh một cách đúng đắn trong tình hình mới. Thực hiện được những vấn đề này là thành công trong đoàn kết toàn dân, xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa vì Dân tộc và Con người ở Việt Nam và trên cơ sở đó củng cố vững chắc khối đoàn kết dân tộc ở tầm cao mới.
Từ mục tiêu chung, phải hoạch định chủ trương và thể chế thành luật pháp, chính sách trên tất cả các lĩnh vực nhằm đáp ứng được nguyện vọng và lợi ích chính đáng của toàn thể nhân dân. Các chính sách được đưa ra phải có ý nghĩa lâu dài và phải xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, đồng thời có thể giải quyết được những mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ nhân dân. Mặt khác, cần phải rà soát lại, sửa đổi những gì không còn phù hợp, bổ sung và ban hành những chính sách mới, luật mới, tạo nền tảng pháp lý cho đoàn kết toàn dân và phải đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh, nhất quán để giữ vững niềm tin của nhân dân.
Phải quán triệt quan điểm của Đảng ta là, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội. Thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở tất cả các cấp, các ngành. Vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhất là làm trong sạch, lành mạnh đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước; củng cố, tăng cường và phát triển lên một chất lượng mới mối quan hệ máu thịt Đảng - Nhà nước - Mặt trận - Nhân dân; khắc phục và tiến tới xoá bỏ các quốc nạn không phải chỉ bằng các chủ trương, mà phải bằng những biện pháp triệt để và cứng rắn, làm gia tăng niềm tin của nhân dân, củng cố khối đoàn kết dân tộc xung quanh Đảng.
Vấn đề xây dựng Nhà nước thật sự là của dân, do dân, vì dân có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng cường khối thống nhất dân tộc, vì Nhà nước có trách nhiệm ban hành luật pháp và chính sách để giải quyết hài hoà các lợi ích, đảm bảo ổn định xã hội, chấn hưng nền văn hoá dân tộc và xây dựng con người mới, thực hiện mục tiêu chung của toàn dân, tạo ra cơ sở pháp lí cho việc củng cố và mở rộng khối đoàn kết dân tộc ngay trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Do vậy, Nhà nước phải tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh các quy chế để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, qua đó tăng cường đoàn kết toàn dân, củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội. Sự phối hợp giữa cơ quan nhà nước và Mặt trận càng tạo điều kiện cho các hoạt động của Nhà nước và Mặt trận cùng có hiệu quả và do đó tăng cường sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc trên thực tế.
Trước sự phát triển của trình độ dân trí và những tiến bộ về chính trị ở nước ta, vấn đề mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện công bằng xã hội song song với việc xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, ý thức tôn trọng luật pháp là tạo ra điều kiện và môi trường pháp lý thuận lợi để củng cố và mở rộng khối đoàn kết toàn dân.
Tăng cường khối đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở đổi mới tổ chức Mặt trận đồng thời với đổi mới các đoàn thể quần chúng cả về tổ chức, phương thức hoạt động sao cho các đoàn thể này thật sự là những tổ chức đem lại những lợi ích thiết thực cho dân, cho các thành viên của tổ chức mình trên cơ sở đảm bảo lợi ích cộng đồng. Mặt khác, cần mở rộng Mặt trận bằng những hình thức, phương thức hoạt động đa dạng, thích hợp với từng giới, từng thành phần xã hội, từng địa phương, từng cơ sở, tuỳ theo tình hình nhiệm vụ và yêu cầu của nhân dân.
Bên cạnh các biện pháp tổ chức, đoàn kết toàn dân bằng các phong trào hành động chung từ thấp lên cao và hướng các hoạt động của Mặt trận xuống cơ sở làm chính có ý nghĩa rất quan trọng.
Cùng với việc thúc đẩy và tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế phát triển, phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật. Nhà nước cần có những biện pháp thích đáng về đầu tư, về hỗ trợ nguồn vốn cho những khu vực, địa phương gặp khó khăn và đồng bào nghèo, nhất là những vùng căn cứ cách mạng, vùng sâu, vùng xa. Tập trung vào các mũi nhọn, các thế mạnh của nền kinh tế, nhưng đồng thời phải có sự điều tiết cần thiết nhằm giảm dần khoảng cách và mất cân đối giữa các vùng, các ngành sản xuất cả trong đầu tư lẫn thu nhập thực tế. Chính sách về giá phải được chú ý giữa thành thị - nông thôn, các vùng dân tộc, biên giới, hải đảo. Khuyến khích và hỗ trợ phong trào xoá đói giảm nghèo, kết hợp với các nguồn phúc lợi, điều tiết thu nhập xã hội để làm tốt chính sách “đền ơn đáp nghĩa” với các gia đình có công với nước và giúp đỡ các gia đình chính sách khác.
Chấn hưng nền văn hoá dân tộc, khôi phục những giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hoá dân tộc, con người Việt Nam là một nội dung nhằm gia cố truyền thống đoàn kết dân tộc. Cùng với việc tuyên truyền, giáo dục và bồi dưỡng lý luận, cần coi trọng hơn nữa việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết cộng đồng và giáo dục đạo đức, lễ nghĩa mà nội dung nhằm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, gia đình, tập thể trên tinh thần nhân văn Việt Nam, nuôi dưỡng tâm lý, trách nhiệm cộng đồng tạo ra cơ sở tinh thần cho đoàn kết toàn dân tộc.
Tăng cường đại đoàn kết dân tộc là trách nhiêm của Đảng và Nhà nước, chứ không chỉ riêng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Trong trách nhiệm chung đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò cực kì quan trọng. Tuy nhiên, để phát huy đầy đủ vai trò của mình, cần xác định rõ tính tổ chức, nguyên tắc làm việc và phương hướng củng cố và phát triển Mặt trận.
Ở nước ta, Mặt trận là một tập hợp các lực lượng chính trị theo đuổi mục tiêu giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn lịch sử đó được ghi nhận trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, trong Hiến pháp năm 1992. Trong Cương lĩnh của Đảng thông qua tại Đại hội VII, Đại hội XI, Mặt trận được xác nhận là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và được nhân dân ta hiểu là hình thức biểu hiện của khối đoàn kết toàn dân hay đoàn kết dân tộc. Trên cả hai ý nghĩa đó, liên minh chính trị và khối đoàn kết dân tộc, việc xác đinh vị trí, vai trò của Mặt trận trong hệ thống chính trị có liên quan chặt chẽ tới việc hình thành cơ sở pháp lí cho hoạt động của Mặt trận và cũng là cơ sở để xác định mối quan hệ và nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận. Không được để xảy ra tình hình tổ chức Mặt trận dần biến thành một đoàn thể xã hội của các bậc lão thành, một kiểu câu lạc bộ chính trị - xã hội của một số cá nhân tiêu biểu trong các tầng lớp xã hội và tôn giáo.
Là liên minh chính trị, Mặt trận làm việc theo các nguyên tắc hiệp thương dân chủ; hợp tác bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau; phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên theo chương trình hành động chung, do đó phải theo hướng củng cố một liên minh chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc, làm đúng chức năng và nhiệm vụ của Mặt trận, thể hiện đươc nguyện vọng và ý chí của các tầng lớp nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là phải trở thành cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, góp sức xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh; tham gia bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; tham gia xây dựng chỉnh đốn Đảng, thực hiện sự giám sát của nhân dân đối với công tác và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và các cơ quan nhà nước; giải quyết các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Với vị trí, vai trò và nhiệm vụ xác định của Mặt trận Tổ quốc, trước những thay đổi sâu sắc của tình hình trong và ngoài nước, đặc biệt là những thay đổi về cơ cấu và thành phần kinh tế cũng như sự biến đổi của các giai tầng trong xã hội đòi hỏi phải kiện toàn, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận. Do vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng Mặt trận phải theo phương hướng như sau:
“1. Mặt trận phải tiến dần dần đến thật dân chủ.
2.  Sự hoạt động của Mặt trận nên nhằm vào những điểm chính để khỏi việc gì cũng làm, nhưng không việc gì là chu đáo. Điểm chính ấy là thi đua ái quốc.
3. Các đảng phái, đoàn thể trong Mặt trận cần phải đoàn kết chặt chẽ, thân ái giúp đỡ lẫn nhau, thật thà học tập những ưu điểm và phê bình những khuyết điểm của nhau để cùng tiến bộ”6.
Đổi mới về tổ chức Mặt trận cần tăng thêm những người tiêu biểu, có uy tín trong các giai tầng xã hội, các dân tộc, các tôn giáo... chú ý những người ngoài Đảng. Phải khắc phục tình trạng hành chính quan liêu, tổ chức bộ máy giúp việc phải gọn nhẹ, có chất lượng, thu hút nhiều chuyên gia giỏi tham gia trên các lĩnh vực hoạt động của Mặt trận để có thể tham gia góp ý kiến vào việc xây dựng pháp luật, chính sách kinh tế - xã hội... tham gia vào các hoạt động giám sát thực hiện luật pháp và hoàn thành các nhiệm vụ ở các cấp. Tự đổi mới, luôn luôn đổi mới là phương thức tồn tại, phát triển của Mặt trận và chỉ có như vậy, Mặt trận mới làm tròn nhiệm vụ của liên minh chính trị và khối đoàn kết dân tộc.
Kể từ ngày thành lập, Đảng ta luôn thực hiện theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Mặt trận đoàn kết dân tộc là: “Đoàn kết chặt chẽ, đoàn kết lâu dài, cùng nhau tiến bộ”7. Bởi vậy, khối đoàn kết dân tộc ngày càng được mở rộng đã góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội và khẳng định năng lực lãnh đạo của Đảng đối với dân tộc. Ngày nay, sự phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội lại đặt ra những đòi hỏi mới về chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận đoàn kết dân tộc ở nước ta.
Trước hết, sự lãnh đạo của Đảng phải thể hiện rõ tính chất dân chủ, cả trong nội dung, phương thức, phương pháp lãnh đạo, thực hiện và phải có sự phân biệt giữa lãnh đạo Mặt trận với lãnh đạo trong nội bộ Đảng. Đảng lãnh đạo Mặt trận, nhưng đồng thời còn có mối liên hệ ngang giữa các thành viên trong một liên minh chính trị và đều là thành tố của hệ thống chính trị. Do vậy, Đảng luôn giữ nguyên tắc là người lãnh đạo, nhưng phải tự đặt mình trong mối quan hệ bình đẳng, dân chủ với các thành viên khác của hệ thống chính trị, tuyệt đối không áp đặt, mệnh lệnh và sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận là định hướng, hướng dẫn, tôn trọng, vừa có tính chất dân chủ, bình đẳng trong quan hệ với những thành viên liên minh (trong Mặt trận), đồng minh (với Mặt trận). Tuy nhiên, Đảng không hoà tan vào liên minh chính trị, vào hệ thống chính trị mà xem nhẹ hoặc buông lỏng vị trí, vai trò lãnh đạo của mình.
Với tư cách người lãnh đạo, Đảng thực hiện vai trò tiên phong của mình, nhưng là người lãnh đạo chứ không làm thay. Đảng đứng trong nhân dân, trong Mặt trận để lãnh đạo, nhưng không thể đứng ngoài và càng không thể đứng trên để lãnh đạo. Đảng lãnh đạo Mặt trận thông qua Đảng đoàn. Đảng đoàn với các thành viên của Mặt trận cùng bàn bạc, xem xét các vấn đề theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ để hình thành ra chủ trương, chương trình công tác của Mặt trận. Về sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận cần phải hiểu rõ và nắm chắc tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”8.
Trước sự biến đổi của tình hình trong và ngoài nước cần nắm vững những đặc điểm mới, có tác động tới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là nền kinh tế thị trường và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đang phát triển. Sự phát triển mới về kinh tế - chính trị - xã hội làm không ngừng nảy sinh các mâu thuẫn mới giữa các giai tầng trong xã hội, nảy sinh những nhu cầu và đòi hỏi mới của nhân dân trên tất cả các phương diện. Tình hình đó, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có những chủ trương, chính sách mới, giải quyết hài hoà các lợi ích, các khuynh hướng, giải quyết các mâu thuẫn và nhu cầu mới nảy sinh mới đoàn kết được toàn dân, động viên tổ chức được mọi lực lượng vật chất và tinh thần của đất nước, để thực hiện có hiệu quả mục tiêu và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói tới vai trò quyết định của chính sách, của năng lực lãnh đạo đối với vị trí và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận. Do vậy, Đảng phải chú trọng tới việc bổ sung, hoàn chỉnh Cương lĩnh và Chương trình hành động của Mặt trận ở từng thời kì để các thành viên trong Mặt trận thống nhất hành động. Để Cương lĩnh, Chương trình của Mặt trận sát với thực tiễn cuộc sống và nhu cầu nguyện vọng của các thành viên trong Mặt trận, Đảng phải coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc nghiên cứu khảo sát thực tiễn, trên cơ sở đó góp ý kiến cho Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối và các chính sách phù hợp, để giải quyết thỏa đáng và điều hoà các lợi ích của các thành viên trong Mặt trận. Điểm mấu chốt là Mặt trận, với vai trò của mình, giúp cho Đảng tìm ra những điểm chung, điểm tương đồng trong đường lối làm cơ sở cho đoàn kết toàn dân, để từ đó hoạch định các chính sách có tính toán tới mục tiêu đoàn kết dân tộc. Việc thông qua Luật về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một biểu hiện rõ rệt nhất năng lực lãnh đạo về chính trị của Đảng đối với Mặt trận và khối đoàn kết toàn dân. Mặt khác, sự xác định về mặt pháp lý đối với Mặt trận là sự khẳng định về sự đóng góp, uy tín và vai trò to lớn của Mặt trận đối với đời sống xã hội.
Về mặt tổ chức, phải phát huy tính chất xã hội, tính chất ái hữu cộng đồng và tính chất nghiệp đoàn của các tổ chức đoàn thể nhân dân trong Mặt trận, nhằm thực hiện tốt các vai trò như: chăm lo và đáp ứng các nhu cầu, lợi ích của các thành viên; vai trò tự giáo dục, vai trò giám sát xã hội, vai trò tư vấn và phản biện đối với các hoạt động của Nhà nước và xã hội; vai trò đại diện quần chúng thực hiện nguyên lý thoả thuận xã hội, điều hoà lợi ích giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Phải củng cố cơ quan các cấp của Mặt trận, chấn chỉnh các tổ chức thành viên của Mặt trận còn yếu kém, hình thức, nhằm thu hút nhiều hơn nữa hội viên, đoàn viên và hoạt động có hiệu quả hơn, đem lại sức mạnh hơn nữa cho Mặt trận.
 Đảng lãnh đạo Mặt trận thông qua công tác của các cấp uỷ, do đó, các cấp uỷ phải thường xuyên quan hệ với Mặt trận, với các đoàn thể nhân dân, do đó phải nâng cao trình độ của các cấp uỷ và sửa đổi lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên. Cần phải hoàn chỉnh quy chế phối hợp hành động, xác định rõ mối quan hệ giữa Đảng - Nhà nước - Mặt trận, nhằm giải quyết tốt các mối quan hệ khác. Những vấn đề như: mô hình tổ chức và cán bộ của Mặt trận, luật hoá trách nhiệm, quyền lợi và quyền hạn của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân cần luôn được đổi mới. Trong điều kiện hiện nay, vai trò của đảng viên tham gia các hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân rất quan trọng. Các đảng viên phải là những người có nhiệt tình trong hoạt động, phải nắm vững đường lối, nghị quyết, chính sách và quan trọng hơn nữa là vai trò tiên phong, tác phong quần chúng, sự thống nhất giữa nói và làm của họ trong các phong trào quần chúng, trong hoạt động thực tiễn và trong thực hiện các nghị quyết của Đảng...
Vấn đề cán bộ và chính sách cán bộ là một trong những vấn đề then chốt trong sự lãnh đạo cuả Đảng đối với Mặt trận. Để giải quyết tốt vấn đề cán bộ, nhằm chấm dứt hiện tượng cán bộ Mặt trận chưa yên tâm công tác, cần giải quyết chính sách một cách thoả đáng, phải bình đẳng, không để số cán bộ này thiệt thòi so với cán bộ công tác ở bộ máy Nhà nước các cấp. Cùng với việc giải quyết chế độ chính sách, Đảng cần bổ sung các chính sách xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận của Đảng. Mặt khác, Đảng phải lựa chọn những cán bộ ưu tú của mình tham gia lãnh đạo các Uỷ ban Mặt trận cùng cấp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Cán bộ làm công tác Mặt trận phải tích cực và phải chủ động giúp cấp uỷ đảng lãnh đạo công tác Mặt trận, phổ biến và thực hiện chính sách của Đảng về Mặt trận; làm việc phải kiên nhẫn, phải thiết tha với công tác Mặt trận. Cán bộ và đảng viên có quyết tâm làm như thế, thì công tác Mặt trận nhất định sẽ tiến bộ nhiều”9.
Mặt trận Tổ quốc là liên minh chính trị bao gồm nhiều tổ chức đoàn thể nhân dân, dân tộc, tôn giáo, do vậy phương thức lãnh đạo của Đảng phải phù hợp với từng đối tượng, thể hiện được tinh thần và thái độ tôn trọng tư cách đại diện nhân dân của Mặt trận và của các đoàn thể nhân dân, đồng thời thể hiện được tinh thần dân chủ trong lãnh đạo của Đảng. Trên cơ sở thảo luận dân chủ, trao đổi ý kiến để Mặt trận chủ động và thẳng thắn góp ý kiến với Đảng, phải tổ chức nhiều hình thức linh hoạt để Mặt trận tích cực đóng góp vào công tác xây dựng Đảng, tham gia giới thiệu những cán bộ chủ chốt cho Đảng, Nhà nước và vận động nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại các biểu hiện tiêu cực trong nội bộ Đảng, trong các cơ quan Nhà nước. Sự tác động đó không chỉ thiết thực trong việc giúp cho Đảng có những quyết định đúng đắn, góp phần củng cố Đảng, mà còn đem lại hiệu quả củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng - Mặt trận - Nhân dân và ngược lại. Do vậy, cần xây dựng hoàn chỉnh quy chế, nề nếp làm việc giữa cấp uỷ Đảng và Đảng đoàn Mặt trận.
Quan hệ giữa Nhà nước - Mặt trận và các đoàn thể nhân dân có ý nghĩa rất quan trọng. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân sẽ làm cho lợi ích xã hội, chất lượng đời sống và trình độ dân trí lên cao, phát huy trí tuệ của nhân dân để hoàn thiện xã hội và ngăn ngừa các tệ nạn xã hội. Ngược lại, thông qua các hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, Nhà nước hoàn thiện bản thân mình, củng cố và không ngừng nâng cao năng lực của đội ngũ công chức. Do vậy, Đảng cần lãnh đạo và chỉ đạo Nhà nước nhanh chóng thể chế hoá vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của Mặt trận trong việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội, xây dựng cơ chế về mối quan hệ giữa Mặt trận với các cơ quan Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi và sự chủ động cho các hoạt động của Mặt trận.
Trong tiến trình xây dựng, Mặt trận phải luôn quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: “Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng ta luôn luôn đấu tranh trên hai mặt trận chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận. Kinh nghiệm 30 năm của Đảng ta trong công tác đoàn kết dân tộc đã chứng tỏ rằng cần phải đấu tranh trên hai mặt trận như thế, thì vai trò lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận dân tộc thống nhất mới được đảm bảo, nền tảng công nông mới được vững chắc, tính chất rộng rãi của Mặt trận mới được phát huy đầy đủ”10.
Ngày nay, trước tình hình và nhiệm vụ mới, Đảng ta coi xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc là trách nhiệm của hệ thống chính trị và đã chỉ ra những phương hướng, biện pháp nhằm củng cố Mặt trận thống nhất dân tộc, đưa khối đoàn kết toàn dân lên một tầm cao mới. Đó là sự tiếp tục đưa tư tuởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc vào thực tiễn, thực hiện đúng chỉ dẫn chiến lược của Người:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công”.
Phạm Hồng Chương
PGS,TS, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng

Các tin tức khác
danh mục tin tức
Kết quả bình chọn Hàng Việt Nam được người tiêu dùng yêu thích 2020