Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ; phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sự nghiệp CNH - HĐH; xây dựng Thủ đô phát triển nhanh, bền vững

20/07/2015 - 04:38 PM

LTS: Đại hội đại biểu Đảng bộ TP Hà Nội lần thứ XVI là sự kiện chính trị trọng đại, có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, an ninh-quốc phòng Thủ đô giai đoạn 2015-2020. Với chủ đề “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng Thủ đô phát triển nhanh, bền vững”, Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XV Đảng bộ TP nhiệm kỳ 2010-2015; nhìn lại 30 năm đổi mới ở Thủ đô (1985-2015); quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển Thủ đô giai đoạn 2015-2010; kiểm điểm sự lãnh đạo của Thành ủy khóa XV và bầu BCH Đảng bộ TP khóa XVI.

Sau thời gian chuẩn bị công phu, nghiêm túc, trách nhiệm, trên cơ sở  các hội nghị tiếp thu ý kiến đóng góp của các cơ quan TW, cán bộ lão thành cách mạng, các nhân sỹ, trí thức, MTTQ và các tổ chức chính trị-xã hội Thủ đô; từ ngày 20-7 đến ngày 10-8- 2017, Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XVI Đảng bộ TP chính thức được đưa ra lấy ý kiến rộng rãi các tầng lớp nhân dân. Đây là đợt sinh hoạt chính trị quan trọng nhằm phát huy dân chủ, trí tuệ của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân TP trong việc góp ý, hoàn thiện Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ TP Hà Nội lần thứ XVI, thể hiện ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân Thủ đô.

Thực hiện chỉ đạo của Thường trực Thành ủy, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ TP trân trong giới thiệu toàn văn bản Dự thảo Báo cáo chính trị trên trang Website của MTTQ TP để nhân dân biết và tiếp tục tham gia đóng góp. Trân trọng cảm ơn./.

PHẦN THỨ NHẤT
ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT KẾT QUẢ
THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XV (2010 - 2015) 
VÀ NHÌN LẠI 30 NĂM ĐỔI MỚI Ở THỦ ĐÔ
I. ĐÁNH GIÁ 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XV ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ (2010 - 2015)
A. NHỮNG KẾT QUẢ NỔI BẬT
1. Vượt qua khó khăn, thách thức, kinh tế Thủ đô tiếp tục phát triển và đạt mức tăng trưởng khá
Thành ủy đã tập trung lãnh đạo, thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế của Trung ương trong giai đoạn vừa qua, nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo an sinh xã hội, đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế; nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Năm năm qua, kinh tế Thủ đô tiếp tục phát triển, đạt mức tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân 5 năm 2011 - 2015 ước tăng 9,23%, gấp 1,58 lần mức tăng bình quân chung của cả nước ([1]). Quy mô GRDP năm 2015 theo giá hiện hành ước đạt khoảng 27,6 tỷ USD, bình quân thu nhập đầu người khoảng 3.600 USD, tăng gấp 1,8 lần so với năm 2010. Các ngành kinh tế được phục hồi và tiếp tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực: tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm 54%, công nghiệp - xây dựng chiếm 41,5% và nông nghiệp là 4,5%; các nhóm ngành đều có mức tăng trưởng khá:
- Ngành dịch vụ tiếp tục có mức tăng trưởng cao, bình quân 5 năm ước tăng 9,97%; kim ngạch xuất khẩu tăng 8,1%; nhập khẩu tăng 3,7%. Các ngành dịch vụ chất lượng cao, trình độ cao có mức tăng trưởng cao hơn so với toàn ngành ([2]). Du lịch phát triển mạnh, đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung ([3]).  
- Ngành công nghiệp - xây dựng được phục hồi, tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, bình quân 5 năm ước tăng 9%. Bước đầu hình thành một số khu công nghệ cao hoạt động hiệu quả; công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin phát triển mạnh ([4]); các khu, cụm công nghiệp đóng góp quan trọng vào phát triển chung của ngành ([5]), công nghiệp hỗ trợ được đẩy mạnh. Các làng nghề, phố nghề truyền thống từng bước được củng cố, xây dựng thương hiệu sản phẩm ([6]).
- Ngành nông nghiệp đạt kết quả tích cực, bình quân ước tăng 2,4%/năm, cao hơn so với chỉ tiêu đặt ra, giá trị sản xuất ước đạt 231 triệu đồng/ha đất canh tác, tăng 1,24 lần so với năm 2010. Cơ cấu nội ngành nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng chăn nuôi, chế biến và dịch vụ nông nghiệp ([7]). Phát triển nông nghiệp sinh thái, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, nâng cao năng suất, bảo đảm hiệu quả, bền vững. Hình thành và mở rộng một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung có giá trị kinh tế cao([8]); đã có nhiều cánh đồng mẫu lớn sản xuất lúa, hoa, cây ăn quả chất lượng cao, giá trị sản xuất lớn, đạt từ 1 - 2 tỷ đồng/ha ([9]).
Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN của Thủ đô tiếp tục được hoàn thiện; các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển và có sự biến đổi tích cực về tỷ trọng: kinh tế nhà nước khoảng 43,6%; kinh tế ngoài nhà nước 38,9%; kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 16,5%. Cơ bản hoàn thành kế hoạch sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011 - 2015.
Việc hợp tác, liên kết phát triển kinh tế Vùng được quan tâm, gắn với nâng cao năng lực cạnh tranh, phát huy thế mạnh ở từng địa phương và trong toàn vùng. Tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng khu vực ngoại thành, kết nối hạ tầng giữa Hà Nội và các địa phương trong Vùng. Liên kết, hợp tác với các tỉnh, thành phố trong cả nước, đặc biệt là liên kết phát triển du lịch giữa Thủ đô với Vùng đồng bằng sông Hồng đạt kết quả tích cực. Hà Nội thực hiện tốt vai trò là trung tâm tài chính - ngân hàng, dịch vụ chất lượng cao của khu vực phía Bắc và cả nước. Chương trình hội nhập kinh tế quốc tế được chỉ đạo thực hiện có hiệu quả. Sức cạnh tranh của kinh tế Thủ đô từng bước được nâng lên.
Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa, tập trung cho đầu tư phát triển. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn 5 năm đạt trên 1 triệu 400 ngàn tỷ đồng, đạt kế hoạch và tăng gấp gần 2 lần giai đoạn 2006 -2010. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút được 1.080 dự án, với tổng số vốn đăng ký gần 3 tỷ USD. Thực hiện chủ trương xã hội hóa đầu tư đạt kết quả tích cực, nhất là lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế ([10]).
Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt và vượt dự toán: 5 năm 2011 -2015, tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 714,5 ngàn tỷ đồng, tỷ lệ tăng bình quân khoảng 7,1%/năm. Chi ngân sách địa phương gần 273 ngàn tỷ đồng, tỷ lệ tăng bình quân 7,7%/năm, bảo đảm cân đối chi thường xuyên và ưu tiên tập trung cho đầu tư phát triển. Trong đó, chi đầu tư phát triển bằng 45,04%, chi thường xuyên bằng 52,38% tổng chi ngân sách.
2. Quy hoạch, xây dựng, quản lý, phát triển đô thị được chú trọng và có chuyển biến tiến bộ rõ rệt
Tập trung hoàn thành và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đồng bộ Chiến lược, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô, Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Hoàn thành các quy hoạch ngành, lĩnh vực, cơ bản hoàn thành các quy hoạch phân khu, quy hoạch chung các huyện, thị xã, thị trấn, các đô thị vệ tinh. Tăng cường công tác quản lý quy hoạch xây dựng đô thị; từng bước đẩy mạnh phân cấp lập, thẩm định, phê duyệt và quản lý, thực hiện quy hoạch cho cấp quận, huyện, thị xã. Công bố công khai quy hoạch cho các tổ chức, cá nhân biết để thực hiện và giám sát việc thực hiện quy hoạch.
Thành phố tập trung huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, chủ động phối hợp với các bộ, ngành Trung ương đẩy mạnh đầu tư phát triển đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; cải tạo, hạ ngầm hệ thống cáp điện và thông tin liên lạc. Chú trọng đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải: các tuyến cao tốc, quốc lộ hướng tâm; các tuyến đường, các trục chính đô thị và các tuyến giao thông quan trọng trên địa bàn Thủ đô; phát triển nhiều công trình lớn, hiện đại, như: Nhà ga quốc tế T2 Nội Bài; đường vành đai 3, đường Nhật Tân - Nội Bài, đường 5 kéo dài; cầu Nhật Tân, cầu Vĩnh Tuy, cầu Vĩnh Thịnh, cầu Đông Trù và hoàn thành 07 cầu vượt, góp phần giảm ùn tắc giao thông khu vực nội đô. Triển khai thi công các tuyến đường sắt đô thị Hà Đông - Cát Linh, Nhổn - ga Hà Nội; nghiên cứu đề xuất, triển khai tuyến Nam Thăng Long - Trần Hưng Đạo; các dự án cải tạo, nâng cấp các công trình hạ tầng điện, cấp thoát nước, đầu tư trang thiết bị, cơ sở phòng cháy, chữa cháy. Hoàn thành dự án thoát nước giai đoạn 2, một số nhà máy xử lý nước thải đi vào hoạt động, đã góp phần cải thiện môi trường. Cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới một số trường học, bệnh viện lớn. Công tác giải phóng mặt bằng được thực hiện có hiệu quả; chính sách bồi thường, hỗ trợ được quan tâm, lợi ích của người dân được coi trọng. Quỹ nhà tái định cư và quản lý nhà tái định cư được chú trọng, cơ bản đáp ứng được nhu cầu tái định cư và phục vụ triển khai các dự án, công trình trọng điểm.
Chất lượng dịch vụ đô thị tiếp tục được nâng cao. Phát triển mạng ống truyền dẫn và phân phối nước sạch, đáp ứng cơ bản cho khu vực đô thị và mở rộng quy mô ở khu vực nông thôn. Đẩy mạnh duy tu, vận hành hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị, nâng cao chất lượng quản lý, khai thác. Cải tạo, nâng cấp, phát huy hiệu quả hệ thống các hồ nước, công viên, vườn hoa và chỉnh trang cây xanh đô thị. Vận hành hệ thống chiếu sáng tiết kiệm, tăng cường chiếu sáng các tuyến đường lớn, các công trình kiến trúc, văn hóa và các khu dân cư.
Việc quản lý và điều chỉnh phân bố dân cư trên địa bàn được tăng cường. Xây dựng nhiều khu đô thị mới hiện đại, khu nhà ở, gắn với điều chỉnh phân bố dân cư. Phát triển nhà ở xã hội, ký túc xá sinh viên, nhà ở cho công nhân, nhà ở cho các đối tượng chính sách và người có thu nhập thấp. Tiếp tục thực hiện cải tạo chung cư cũ, cải thiện nhà ở cho người dân. Thực hiện di dời một số cơ sở sản xuất gây ô nhiễm và các cơ quan, đơn vị, bệnh viện, trường đại học, cao đẳng, v.v... ra ngoài khu vực nội đô lịch sử. Tăng cường quản lý lao động, nhất là lao động trong các khu, cụm công nghiệp, người nhập cư, lao động nước ngoài trên địa bàn.
Công tác quản lý đô thị, chấn chỉnh trật tự, kỷ cương xây dựng, bảo đảm an toàn giao thông, trật tự, văn minh đô thị được tăng cường, nhất là sau hơn hai năm thực hiện “Năm trật tự và văn minh đô thị”. Nếp sống văn minh đô thị, trật tự, an toàn xã hội có chuyển biến tốt hơn. 
Quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên và quản lý đất đai được chú trọng. Thực hiện đồng bộ, quyết liệt công tác bảo vệ môi trường, khắc phục dần tình trạng ô nhiễm, bảo đảm vệ sinh môi trường. Công tác phòng, chống lụt bão, bảo vệ, tu sửa, nâng cấp hệ thống đê điều, tưới tiêu, thoát nước được duy trì thường xuyên, hạn chế úng ngập cục bộ kéo dài trong các đợt mưa, bão lớn. Công tác phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ được quan tâm; ứng phó với biến đổi khí hậu đạt được một số kết quả bước đầu.
3. Công tác xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực, đời sống của nông dân Thủ đô được cải thiện và ngày càng nâng cao
Công tác xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo, với sự vào cuộc quyết liệt của cấp ủy, chính quyền, MTTQ và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; sự tham gia, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân Thủ đô, đã đạt được kết quả tích cực. Trong 5 năm, đã huy động bình quân khoảng 5.800 tỷ đồng/năm cho đầu tư xây dựng nông thôn mới ([11]).
 Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội khu vực nông thôn được chú trọng đầu tư. Hệ thống đê kè, thuỷ lợi, giao thông nông thôn v.v... được củng cố, nâng cấp. Tỷ lệ xã có đường ô tô đến trụ sở được bê tông hóa đạt 100%; đường trục thôn và liên thôn được bê tông hóa đạt 95%. Tỷ lệ thôn, xóm, cụm dân cư có nhà văn hóa đạt 80,5%, các xã đều có hệ thống loa truyền thanh. Không còn phòng học tạm, dột nát và tình trạng phải học ba ca. 100% số xã có trạm y tế, có bác sỹ và nhiều xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Môi trường nông thôn được cải thiện, tỷ lệ thu gom và xử lý rác thải ở ngoại thành đạt 90%, dân số nông thôn được sử dụng nước đảm bảo vệ sinh đạt 100%. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố, dân chủ được mở rộng; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. 
Kinh tế nông thôn có bước phát triển khá. Nhiều sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao đã xây dựng được thương hiệu có uy tín; bước đầu hình thành một số chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm; một số hợp tác xã nông nghiệp được củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động. Đời sống vật chất và tinh thần của nông dân Thủ đô được cải thiện, nhiều vùng được nâng cao. Thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn tiếp tục tăng lên, năm 2015 ước đạt 33 triệu đồng/người/năm, gấp 2 lần so với năm 2011 ([12]). Tỷ lệ các hộ có nhà kiên cố và khang trang; có truyền hình, điện thoại cố định và kết nối internet ngày càng tăng. Tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn giảm từ 11,2% năm 2011 xuống còn khoảng 2% năm 2015. 
 Dự kiến đến cuối năm 2015, toàn Thành phố có 166/386 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 43% tổng số xã (cả nước đạt 20%). Việc dồn điền, đổi thửa đạt trên 97% những diện tích có thể dồn điền đổi thửa, tạo tiền đề phát triển sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao, thâm canh tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
4. An sinh xã hội được bảo đảm, chất lượng cuộc sống của nhân dân từng bước được nâng cao   
Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân có nhiều tiến bộ. Đã thực hiện các giải pháp đồng bộ, tích cực để từng bước khắc phục tình trạng quá tải của các bệnh viện. Tăng cường đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp, mua sắm trang thiết bị cho các bệnh viện, nhất là bệnh viện tuyến huyện. Giai đoạn 2011 - 2015, Thành phố đã đầu tư trên 3.068 tỷ đồng từ ngân sách để cải tạo, nâng cấp, mua sắm trang thiết bị cho 49 dự án của 37 bệnh viện trên địa bàn. Chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên; đã thực hiện thành công một số kỹ thuật mới ([13]). Hệ thống y tế cơ sở và mạng lưới y tế dự phòng được củng cố, tăng cường cả về đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất và trang thiết bị ([14]). Chất lượng y tế cộng đồng có chuyển biến; dịch bệnh được kiểm soát; công tác kiểm tra, giám sát bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm được tiến hành thường xuyên, không để xảy ra ngộ độc lớn trên địa bàn.
Công tác dân số, gia đình được chú trọng, bảo đảm ổn định mức tăng dân số tự nhiên và từng bước nâng cao chất lượng dân số. Việc chăm sóc sức khỏe, bảo trợ, nuôi dưỡng trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được quan tâm; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm đáng kể, còn dưới 10%. Thực hiện tốt các chương trình hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ, bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình.
Thể dục, thể thao (TDTT) Thủ đô tiếp tục phát triển, khẳng định vị trí dẫn đầu cả nước, là đơn vị chủ lực của thể thao thành tích cao Việt Nam tại các đấu trường khu vực và quốc tế ([15]). Cơ sở vật chất đầu tư cho hoạt động TDTT được tăng cường. Phong trào TDTT quần chúng phát triển mạnh. Việc giáo dục thể chất cho thế hệ trẻ ngày càng được quan tâm. Công tác xã hội hóa lĩnh vực TDTT được thực hiện có hiệu quả.
Các chương trình, đề án, kế hoạch về giải quyết việc làmdạy nghề cho lao động, nhất là lao động nông thôn, phát triển thị trường lao động được thực hiện có hiệu quả. Bình quân mỗi năm đào tạo nghề, truyền nghề cho trên 15 vạn lao động và giải quyết việc làm cho 14 vạn lượt lao động; tỷ lệ thất nghiệp còn dưới 4,8%. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tự nguyện trong nhân dân tiếp tục mở rộng và phát triển.
Giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội. Nhiều chương trình, chính sách giảm nghèo, hỗ trợ người tàn tật, người có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, v.v... được triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả, góp phần ổn định đời sống vật chất, tinh thần của các đối tượng trên. Tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2015 giảm xuống còn 1,71%.
Công tác đấu tranh phòng, chống và đẩy lùi các tệ nạn xã hội được thực hiện quyết liệt. Mô hình xã, phường, địa bàn dân cư, cơ quan, trường học không có tệ nạn xã hội được nhân rộng. Chất lượng quản lý, giáo dục, chữa trị tại các trung tâm chữa bệnh và giáo dục lao động xã hội của Thành phố được nâng cao.
Chất lượng cuộc sống của nhân dân Thủ đô, đặc biệt là khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc ít người được cải thiện. Việc hỗ trợ các đối tượng chính sách xã hội và thực hiện chính sách đối với người có công, chính sách dân tộc được triển khai thực hiện có hiệu quả ([16]). Phong trào “đền ơn, đáp nghĩa” được đẩy mạnh, huy động được nhiều tổ chức, cá nhân tham gia. 
5Văn hóa tiếp tục phát triển; xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh đạt kết quả đáng ghi nhận
Văn hóa tiếp tục phát triển, một số mặt chuyển biến tích cực; thực hiện tốt các chủ trương về nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa ở cơ sở; đời sống văn hóa, tinh thần của các tầng lớp nhân dân Thủ đô được cải thiện rõ rệt. Hệ thống các thiết chế văn hóa được quan tâm đầu tư, hoàn thiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển văn hóa của cộng đồng và bảo tồn bản sắc văn hoá các dân tộc. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường.
Việc bảo tồn, tôn tạo, nghiên cứu, giới thiệu, quảng bá, phát huy giá trị di sản văn hóa được tiến hành đồng bộ và có chuyển biến tích cực. Hoạt động văn học, nghệ thuật, giao lưu văn hóa trong nước, khu vực và quốc tế tiếp tục mở rộng, phục vụ tốt yêu cầu nhiệm vụ chính trị và đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Thủ đô.
Hoạt động báo chí, xuất bản, truyền thông tiếp tục phát triển và đạt kết quả tích cực, góp phần phát huy dân chủ, định hướng dư luận xã hội, thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của Thành phố. Quản lý nhà nước về bưu chính, viễn thông, dịch vụ Internet từng bước đi vào nền nếp.
Xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh được chú trọng và đạt kết quả đáng ghi nhận. Nhiều phong trào, hoạt động xây dựng mô hình văn hóa ở cơ sở tiếp tục được triển khai đạt kết quả tốt; những giá trị, nét đẹp văn hoá của người Hà Nội thanh lịch, văn minh, truyền thống trong gia đình, họ tộc và cộng đồng dân cư được kế thừa, phát huy ([17]). Nếp sống văn hoá, văn minh đô thị, nhất là trong việc cưới, việc tang, tổ chức lễ hội có chuyển biến tốt. Xây dựng bộ quy tắc ứng xử văn minh nơi công cộng và đưa vào giảng dạy bộ tài liệu giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh cho học sinh Thủ đô, v.v... đã góp phần nâng cao nhận thức, khơi dậy niềm tự hào, điều chỉnh hành vi của người Hà Nội, nhất là thế hệ trẻ.
6. Khoa học và công nghệ được đẩy mạnh; giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển, chất lượng nguồn nhân lực từng bước được nâng cao
Sự nghiệp khoa học và công nghệ được đẩy mạnh, hoạt động khoa học và công nghệ tiếp tục được đổi mới, đã có đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội; tập trung lãnh đạo xây dựng, triển khai thực hiện có hiệu quả nhiều chương trình, đề án nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ Thủ đô, gắn với tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XI), góp phần thúc đẩy đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, năng lực quản lý, năng lực cạnh tranh và phát triển kinh tế tri thức. Chỉ đạo thực hiện tốt một số cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ trong nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học và công nghệ. Tỷ lệ ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn của các đề tài, dự án ngày càng cao. Các dự án đầu tư phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ được đẩy mạnh. Thị trường khoa học và công nghệ Thủ đô tiếp tục được mở rộng; hoạt động quản lý sở hữu trí tuệ được tăng cường; tích cực hỗ trợ áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp, xây dựng nhãn hiệu tập thể cho một số sản phẩm, làng nghề truyền thống.
Giáo dục  đào tạo Thủ đô tiếp tục được đổi mới, phát triển, dẫn đầu cả nước về các tiêu chí: quy mô giáo dục, mạng lưới trường lớp và chất lượng giáo dục toàn diện, giáo dục mũi nhọn, số học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế. Tập trung chỉ đạo thực hiện nghiêm túc việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI), triển khai xây dựng mô hình trường chất lượng cao theo Luật Thủ đô. Phê duyệt và tổ chức thực hiện một số quy hoạch chuyên ngành về phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo và mạng lưới trường học của Thành phố. Chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục được nâng lên, 100% giáo viên đứng lớp có trình độ đạt chuẩn theo quy định. Công tác tuyển sinh vào các lớp đầu cấp được phân tuyến hợp lý hơn. Cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn kinh phí đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo được tăng cường; 50% trường đạt chuẩn quốc gia; hoàn thành xóa phòng học tạm và phòng học nhà cấp 4; 100% quận, huyện đã đạt chuẩn phổ cập mầm non 5 tuổi (vượt trước 2 năm so với toàn quốc), phổ cập THCS đạt 99,36%, phổ cập THPT đạt 90%. Công tác xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo được mở rộng.
Công tác đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao của Thành phố được coi trọng. Đã xây dựng và triển khai thực hiện 04 đề án nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học và công nghệ; xây dựng cơ chế đào tạo, sử dụng đội ngũ trí thức, nhân lực có trình độ cao, tay nghề cao, Việt kiều và chuyên gia nước ngoài. Việc liên kết giữa doanh nghiệp với cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo để phát triển nguồn nhân lực ngày càng chặt chẽ hơn. Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tiếp tục được hoàn thiện; trường Đại học Thủ đô Hà Nội được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập cuối tháng 12/2014; công tác đào tạo nghề được đẩy mạnh cả về hình thức, loại hình, quy mô và chất lượng.
7. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô được giữ vững; quốc phòng và quân sự địa phương ngày càng được củng cố, tăng cường
Thành ủy đã tập trung lãnh đạo triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chủ trương, giải pháp bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Chính trị - xã hội trên địa bàn Thủ đô luôn ổn định, đặc biệt là trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và những vấn đề liên quan đến biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp. Phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân Thủ đô trong tổ chức thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Bảo vệ vững chắc hệ thống chính trị; bảo đảm an toàn tuyệt đối các mục tiêu trọng điểm, sự kiện quan trọng diễn ra trên địa bàn. Lực lượng Công an Thủ đô đã phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành chủ động đấu tranh ngăn chặn các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; giải quyết tốt an ninh nội bộ, an ninh văn hóa, an ninh thông tin, xử lý kịp thời những vấn đề phức tạp, bức xúc, không để xảy ra đột biến, bất ngờ, gây rối, phá hoại, biểu tình trái pháp luật, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự. Thực hiện các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh chủ động, sáng tạo, có hiệu quả cao, kết hợp với kiên trì tuyên truyền, vận động, nên đã hạn chế được các hoạt động tôn giáo trái phép, không để phát sinh các tụ điểm phức tạp.
Trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô có nhiều chuyển biến tích cực. Đã kiềm chế, từng bước đẩy lùi hoạt động của các loại tội phạm và vi phạm pháp luật. Chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh trấn áp các loại tội phạm được nâng lên. Đã triển khai đồng bộ nhiều chương trình, kế hoạch, mô hình mới, tạo sự đột phá, hiệu quả cao trong phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, được nhân dân Thủ đô ghi nhận và nhân rộng kinh nghiệm tại nhiều tỉnh, thành trong cả nước.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng của Thủ đô được chú trọng và đạt kết quả toàn diện. Nhiệm vụ giáo dục và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng, học sinh, sinh viên được thực hiện thường xuyên, chất lượng tốt. Tiềm lực quốc phòng được nâng lên. Hà Nội là địa phương đầu tiên trong cả nước ban hành và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết chuyên đề của HĐND Thành phố về “Xây dựng khu vực phòng thủ Thành phố đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn được tăng cường; kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng ngày càng chặt chẽ, hiệu quả. Hoàn thành tốt chỉ tiêu huy động, kiểm tra huấn luyện quân nhân dự bị hằng năm, dẫn đầu cả nước về chất lượng công dân nhập ngũ đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp; đào tạo số lượng lớn sĩ quan dự bị bằng ngân sách địa phương; xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch thế trận quân sự khu vực phòng thủ. Hoàn thành xuất sắc diễn tập khu vực phòng thủ thành phố Hà Nội năm 2013; đổi mới, nâng cao chất lượng diễn tập khu vực phòng thủ cấp huyện và diễn tập chiến đấu trị an cấp xã trên địa bàn Thành phố.
Lực lượng vũ trang Thủ đô được tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng tổng hợp, nhất là chất lượng về chính trị, khả năng sẵn sàng chiến đấu và trình độ chính quy được nâng lên. Phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng quân đội và công an, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Phát huy được vai trò là lực lượng nòng cốt, xung kích trong phòng, chống lụt bão, cháy nổ, cháy rừng, cứu hộ, cứu nạn. Phối hợp với các đơn vị quân đội trên địa bàn làm tốt công tác dân vận, xây dựng thế trận lòng dân, xây dựng địa bàn an toàn, vững mạnh. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, nhất là các chế độ chính sách mới được ban hành. Công tác đối ngoại quân sự giữa Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội và Bộ Tư lệnh Thủ đô các nước Lào, Cămpuchia; các hoạt động hợp tác, kết nghĩa với lực lượng vũ trang của một số tỉnh, như: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Lâm Đồng,… ngày càng được tăng cường và thực hiện có hiệu quả.
8. Hoạt động đối ngoại, hợp tác phát triển tiếp tục được đẩy mạnh, vị thế, uy tín Thủ đô ngày càng được nâng cao
Công tác đối ngoại, hợp tác, hội nhập phát triển của Thành phố tiếp tục được đẩy mạnh toàn diện và đạt kết quả tốt. Đến nay, Hà Nội có quan hệ hữu nghị, hợp tác với hơn 100 thủ đô, thành phố của các nước; là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế có uy tín trên thế giới. Nhiều cam kết hợp tác song phương, đa phương được ký kết và triển khai có hiệu quả. Quan hệ hữu nghị, hợp tác với các đối tác được củng cố và tăng cường; kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài được chú trọng.
Hoạt động đối ngoại nhân dân được mở rộng, góp phần tăng cường sự hiểu biết và nâng cao vị thế quốc tế của Thủ đô. Công tác thông tin đối ngoại từng bước được đẩy mạnh, thiết thực quảng bá hình ảnh, nâng cao uy tín của Việt Nam và Hà Nội trên trường quốc tế ([18]).
Thành phố đã chủ động, tích cực, tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương, sự phối hợp, hợp tác của các bộ, ban, ngành. Quan hệ hợp tác cùng phát triển trên các mặt kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh giữa Thủ đô với các tỉnh, thành phố trong cả nước đạt kết quả tốt ([19]).
9. Hệ thống chính quyền, MTTQ và tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội các cấp ngày càng vững mạnh, hiệu lực quản lý, điều hành và chất lượng hoạt động được nâng lên 
Hệ thống tổ chức chính quyền các cấp tiếp tục được kiện toàn vững mạnh và hoạt động có hiệu quả. HĐND các cấp tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng các kỳ họp và ban hành nghị quyết, chất lượng hoạt động giám sát, tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, đôn đốc giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; phát huy được vai trò, hiệu quả hoạt động của cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân và cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Hoạt động của UBND các cấp có nhiều đổi mới, năng lực quản lý, điều hành và hiệu lực, hiệu quả hoạt động được nâng lên. UBND Thành phố đã lựa chọn chủ đề công tác cho từng năm, xác định rõ trọng tâm, trọng điểm và các khâu đột phá để tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ cơ quan hành chính các cấp được củng cố, kiện toàn, có chuyển biến về chất lượng. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, xây dựng chính quyền điện tử đạt hiệu quả thiết thực. Cải cách hành chính (CCHC) tiếp tục được đẩy mạnh, trọng tâm là thực hiện cải cách thủ tục hành chính (TTHC), tiếp tục hiện đại hóa nền hành chính, nâng cao trình độ, năng lực thực thi công vụ, ý thức, trách nhiệm và hiệu quả phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Chất lượng dịch vụ hành chính, dịch vụ công có nhiều chuyển biến. Chỉ số CCHC của thành phố Hà Nội xếp thứ 5 trên 63 tỉnh, thành phố. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cơ bản được chuẩn hóa, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Công tác theo dõi, kiểm tra việc thi hành pháp luật, tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân đạt kết quả tích cực, kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc và mới phát sinh, hạn chế tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp; tập trung rà soát, giải quyết dứt điểm các vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài, không để phát sinh điểm nóng.
Các cơ quan tư pháp và đội ngũ cán bộ của cơ quan tư pháp Thành phố được bố trí, sắp xếp cơ bản hợp lý, hoạt động có hiệu quả. Công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động bổ trợ tư pháp được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Hiệu quả công tác thi hành án dân sự được nâng cao, nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng được giải quyết dứt điểm. Việc phối hợp chỉ đạo của các cơ quan tố tụng trong giải quyết các vụ án hình sự, nhất là các vụ trọng điểm, phức tạp có hiệu quả hơn. 
Chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội các cấp có chuyển biến tiến bộ: Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ của MTTQ và đoàn thể các cấp, nhất là cấp cơ sở và tổ chức đoàn thể ở các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước được tăng cường, chất lượng, hiệu quả hoạt động được nâng lên. Đã chủ động tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính quyền các cấp lãnh đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, thu hút, tập hợp đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân Thủ đô hăng hái tham gia thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Nhiều cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước được tổ chức sâu rộng, thiết thực, hiệu quả, tập hợp được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tạo đồng thuận xã hội, góp phần tích cực cùng chính quyền các cấp giải quyết thành công nhiều việc lớn, việc khó, nhất là những việc phức tạp kéo dài và mới phát sinh.
Hoạt động giám sát, phản biện xã hội được tăng cường và đi vào chiều sâu, trọng tâm là việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; tham gia đóng góp nhiều ý kiến quan trọng xây dựng các chủ trương, nghị quyết, chương trình, kế hoạch, đề án lớn về phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại, hội nhập; xây dựng Đảng, chính quyền các cấp. Quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên được quan tâm bảo vệ. Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội ngày càng chặt chẽ, phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân Thủ đô.
10. Công tác xây dựng Đảng được chú trọng, tạo được nhiều chuyển biến tích cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng cao
Công tác chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) được tiến hành đồng bộ và đạt nhiều kết quả quan trọng. Nhìn chung, các cấp ủy, tổ chức đảng từ Thành phố tới cơ sở đã triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả 4 nhóm giải pháp chủ yếu của Nghị quyết, trọng tâm là nhóm giải pháp tự phê bình, phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ, gắn với thực hiện Chương trình số 01 của Thành ủy. Đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng, có tác dụng cảnh báo, răn đe, ngăn chặn các hành vi tiêu cực; nâng cao nhận thức, ý thức tu dưỡng, rèn luyện về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên; công tác tổ chức, cán bộ, đặc biệt là xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ có chuyển biến tốt hơn. Qua kiểm điểm tự phê bình, từng tập thể cấp ủy và mỗi cán bộ, đảng viên đã nỗ lực, quyết tâm tự sửa chữa, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; kịp thời phát hiện, biểu dương, nhân rộng nhân tố điển hình, ngăn chặn các biểu hiện suy thoái, tiêu cực và xử lý nghiêm vi phạm, tạo ra bước chuyển biến mới về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Công tác chính trị, tư tưởng, gắn với việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được chú trọng và tăng cường. Chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng và tổng kết thực tiễn được nâng lên. Trong nhiệm kỳ, Thành ủy đã tham mưu cho Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 11 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô giai đoạn 2011 - 2020, Quốc hội ban hành Luật Thủ đô; chỉ đạo tổng kết, đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết 15 của Quốc hội (khóa XII) về mở rộng địa giới hành chính Thủ đô; 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới ở Hà Nội, 9 chương trình và nhiều đề án công tác lớn của Thành ủy (khóa XV).
Việc chỉ đạo quán triệt, hướng dẫn triển khai tổ chức thực hiện các chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương và của Thành ủy tiếp tục được đổi mới, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng được triển khai tích cực, tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động trong toàn Đảng bộ và sự đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân Thủ đô đối với Đảng bộ và sự nghiệp đổi mới của Đảng. Công tác lãnh đạo các hoạt động báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ được quan tâm, kịp thời nắm bắt, định hướng tư tưởng, hướng dẫn dư luận, đấu tranh có hiệu quả với âm mưu “diễn biến hòa bình” và thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc và mới phát sinh về tư tưởng trên địa bàn.
Công tác tổ chức, cán bộ tiếp tục được đổi mới và có chuyển biến tích cực, tập trung lãnh đạo thực hiện tốt Chương trình số 01 của Thành ủy về xây dựng ĐảngTrọng tâm là, lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị các cấp vững mạnh, xây dựng, triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 09 của Thành ủy, tạo bước chuyển biến mạnh về công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của chủ doanh nghiệp và người lao động đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng và hệ thống chính trị các cấp; phát huy được vai trò, tác dụng của các tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp. Đến nay, đã thành lập mới 540 tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, kết nạp 3.117 đảng viên, trong đó có 16 chủ doanh nghiệp tư nhân. Tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả Đề án số 06 về kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của cấp ủy và các tổ chức trong hệ thống chính trị trên địa bàn dân cư, tổ dân phố, thôn, xóm ở xã, phường, thị trấn. Qua đó, đã sắp xếp lại mô hình tổ chức chi bộ và tổ dân phố cơ bản bảo đảm thống nhất, thu gọn được nhiều đầu mối, giảm được gần 1/3 số tổ dân phố (gồm có 2.239 tổ và 6 thôn), khắc phục được tình trạng cồng kềnh về bộ máy và chồng chéo trong lãnh đạo, chỉ đạo kéo dài trong nhiều năm, bước đầu nâng cao được chất lượng hoạt động hệ thống chính trị ở cơ sở.
 Chú trọng củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nhất là cấp chi bộ. Công tác đánh giá chất lượng tổ chức đảng; quản lý, phát triển đảng viên, nhất là đảng viên trong đội ngũ trí thức, học sinh, sinh viên được chú trọng. Số lượng tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh, đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, số đảng viên được kết nạp hàng năm, v.v... đều đạt và vượt chỉ tiêu Đại hội XV ([20]). Việc đánh giá, quy hoạch, bố trí, sắp xếp, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển và thực hiện chính sách cán bộ được chỉ đạo thực hiện đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, hiệu quả. Trong nhiệm kỳ, đã điều động, luân chuyển được gần 180 cán bộ Thành ủy quản lý. Thực hiện tốt Chỉ thị 07 của Ban Thường vụ Thành ủy về quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ nữ, cán bộ trẻ để chuẩn bị nhân sự cho đại hội đảng các cấp. Đã đào tạo được 1.250 cán bộ nguồn khối đảng, đoàn thể, chính quyền và 106 cán bộ dự nguồn cấp ủy của Thành phố. 
Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường và thực hiện có hiệu quả. Nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào một số trọng tâm, như: việc thực hiện các chương trình, kế hoạch công tác lớn của Thành phố; các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI); công tác quản lý đất đai, tài chính, quy hoạch đô thị, dự án đầu tư, công tác tổ chức cán bộ, thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Trong nhiệm kỳ, đã kiểm tra 278 tổ chức đảng, 1.063 đảng viên; giám sát chuyên đề gần 7.300 tổ chức đảng và trên 22.840 đảng viên. Thông qua kiểm tra, giám sát, đã phát hiện các nhân tố tích cực, mô hình mới, có hiệu quả để nhân rộng; những sơ hở, bất cập trong quản lý, điều hành để chấn chỉnh; những bất hợp lý trong cơ chế, chính sách để sửa đổi, bổ sung và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Năm năm qua, đã xử lý kỷ luật 66 tổ chức đảng, 3.460 đảng viên, góp phần giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng.
Công tác dân vận được quan tâm và đạt kết quả tích cực. Hệ thống dân vận, từ Thành phố đến cơ sở được củng cố, kiện toàn, phương thức hoạt động tiếp tục được đổi mới; chất lượng, hiệu quả hoạt động được nâng lên. Công tác dân vận của chính quyền và lực lượng vũ trang Thủ đô được tăng cường. Việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được mở rộng và chỉ đạo quyết liệt, tạo đồng thuận trong xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh của Thủ đô. Công tác tôn giáo, dân tộc được chú trọng, giải quyết thành công nhiều việc mới, việc khó; đời sống đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn được cải thiện tốt hơn. Việc phối hợp công tác giữa khối dân vận Thành phố với các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị ngày càng chặt chẽ và có hiệu quả.
Công tác nội chính được chú trọng và đạt một số kết quả cơ bản. Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ đối với các tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong khối. Công tác cải cách tư pháp của Thành phố theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) và Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị được đẩy mạnh, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong điều tra, xử lý các vụ án và công tác bảo vệ Đảng.
Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ ([21]). Chú trọng các giải pháp phòng ngừa đi đôi với xử lý nghiêm minh mọi vi phạm. Thực hiện tốt việc rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách, đẩy mạnh CCHC, bảo đảm công khai, minh bạch các hoạt động kinh tế - xã hội và công tác cán bộ, thi tuyển công chức, viên chức. Tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý kịp thời một số vụ việc bức xúc liên quan đến tham nhũng, lãng phí, được nhân dân đồng tình. Tạo điều kiện để nhân dân, MTTQ, tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội các cấp phát huy vai trò giám sát, tham gia phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Phương thức lãnh đạo của cấp ủy các cấp tiếp tục được đổi mới, bảo đảm bài bản, khoa học, quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm. Thành công nổi bật trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm kỳ qua là, Thành ủy đã, cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XV thành 9 chương trình công tác lớn; xác định rõ 5 nhiệm vụ chủ yếu và 2 khâu đột phá, kết hợp với xác định chủ đề công tác từng năm để tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả. Đổi mới mạnh mẽ phong cách công tác, lề lối làm việc, thực hiện “nói đi đôi với làm”, tiến hành phân cấp mạnh cho cơ sở, đề cao trách nhiệm cá nhân, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, địa phương, đơn vị. Bám sát thực tiễn, gần dân; tăng cường kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các vi phạm, nhất là những vấn đề nổi cộm, bức xúc, phát sinh.  
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng cao. Cải cách hành chính trong Đảng và hệ thống chính trị các cấp tiếp tục được đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả, đặc biệt là trong việc xây dựng, hoàn thiện, chỉ đạo thực hiện tốt các quy chế, quy định và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; dân chủ trong Đảng và đời sống xã hội tiếp tục được mở rộng; quyền làm chủ của nhân dân và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân Thủ đô ngày càng được phát huy.
Đạt được những thành quả nổi bật nêu trên là do nhiều nguyên nhân, tập trung vào một số nguyên nhân chủ yếu sau: 
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất, tinh thần chủ động, năng động, sáng tạo, ý chí quyết tâm vượt khó; Thành ủy đã tập trung lãnh đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời bám sát tình hình thực tiễn của Thủ đô, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, mở rộng dân chủ và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân, chung sức, đồng lòng xây dựng Thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp uỷ, chính quyền các cấp được đổi mới mạnh mẽ, tập trung chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ sâu sát, quyết liệt, dứt điểm, hiệu quả, nhất là những nhiệm vụ trọng tâm, lĩnh vực khó, phức tạp. Đội ngũ cán bộ, đảng viên nhìn chung có phẩm chất, năng lực và tinh thần trách nhiệm cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thành phố Hà Nội luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt, sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, sâu sát của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ; sự hỗ trợ, giúp đỡ nhiệt tình, kịp thời, có hiệu quả của các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương; sự ủng hộ, hợp tác tích cực của các tỉnh, thành phố trong cả nước và bạn bè quốc tế. 
B.  HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM VÀ NGUYÊN NHÂN 
1. Hạn chế, khuyết điểm
1.1. Về lãnh đạo phát triển kinh tế: Kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh Thủ đô; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh nhìn chung còn thấp; trong số 19 chỉ tiêu chủ yếu của Đại hội XV, có 04 chỉ tiêu vượt kế hoạch ([22]) và còn 04 chỉ tiêu không đạt kế hoạch ([23]). Do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế thế giới, lạm phát trong nước tăng cao, sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nên tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt thấp hơn 5 năm trước. Thực hiện một số tiêu chí cơ bản tái cơ cấu kinh tế chưa đạt yêu cầu đề ra; kinh tế tri thức phát triển chậm. Hội nhập kinh tế quốc tế chưa sâu, hợp tác kinh tế vùng kém hiệu quả, vai trò điều phối kinh tế Vùng chưa được thể hiện rõ.
Chưa phát huy được thế mạnh các nguồn lực về vốn, khoa học và công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và thị trường lao động để tập trung cho đầu tư phát triển, đã ảnh hưởng không nhỏ tới tốc độ tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai, tài sản công, nhất là quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước chưa cao. Công nghệ, quản lý sản xuất chậm đổi mới, năng suất lao động và chất lượng hàng hóa nhìn chung còn thấp. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước gặp nhiều khó khăn. Tình trạng buôn lậu, hàng giả, gian lận thương mại, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, v.v… còn xảy ra ở nhiều nơi.
Sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo hướng tập trung, chuyên canh chưa được nhân rộng; tỷ lệ cơ giới hóa trong sản xuất chưa cao, phát triển nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao và tạo thành chuỗi giá trị còn hạn chế. Việc khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp chưa được quan tâm đúng mức, nhất là doanh nghiệp đầu tư cho các khâu chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. 
1.2. Về lãnh đạo công tác xây dựng và quản lý đô thị: Công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý, phát triển đô thị, một số lĩnh vực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển Thủ đô. Quản lý đất đai, trật tự xây dựng có mặt còn yếu kém. Việc cải tạo, nâng cấp, chỉnh trang các khu chung cư cũ trong nội thành còn chậm; di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường, trường đại học, cao đẳng, cơ sở khám, chữa bệnh ra ngoài khu vực nội đô cũ chưa bảo đảm tiến độ. Công tác giải phóng mặt bằng còn khó khăn; trật tự, kỷ cương an toàn giao thông chuyển biến chậm; tỷ lệ giãn dân khu vực nội đô lịch sử còn thấp. Môi trường sinh thái, nhiều nơi còn ô nhiễm nặng, nhất là ở một số sông hồ, làng nghề, cụm công nghiệp, chợ nông thôn v.v...
1.3. Về lãnh đạo phát triển văn hóa - xã hội: Lĩnh vực văn hóa - xã hội phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chưa tương xứng với vị thế, vai trò Thủ đô. Chất lượng hoạt động văn hóa, nghệ thuật còn hạn chế, chưa ngang tầm với thực tiễn đời sống xã hội phong phú, sôi động của Thủ đô; thiếu những tác phẩm có giá trị đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật. Hiệu quả phát huy các giá trị di sản văn hóa chưa cao. Một số tiêu chí xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh kết quả thực hiện còn hạn chế, chưa tạo được chuyển biến rõ nét về văn hóa ứng xử của người dân; nếp sống văn hóa, trật tự, kỷ cương, văn minh đô thị có mặt còn yếu kém.
 Một số mặt của công tác giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chuyển biến chậm, hiệu quả giáo dục đạo đức học đường, ứng xử văn minh ở các cấp học vẫn còn bất cập. Khoa học và công nghệ phát triển chưa tương xứng với lợi thế, tiềm năng, chưa phát huy được vai trò là động lực phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô. Cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ chưa đồng bộ, chậm được đổi mới, nên chưa khuyến khích và thu hút được sự tham gia của đông đảo các nhà khoa học.
Công tác y tế, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân có mặt còn hạn chế. Việc đầu tư cho y tế chủ yếu mới dựa vào nguồn lực ngân sách, vẫn còn tình trạng quá tải ở một số chuyên khoa tại các bệnh viện tuyến Thành phố. Chất lượng đào tạo nghề, nhất là cho lao động nông thôn ở nhiều địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động.
1.4. Về lãnh đạo quốc phòng, an ninh, đối ngoại: Phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc ở một số địa bàn còn thiếu chiều sâu, hiệu quả chưa cao. Tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; kỷ cương, kỷ luật và ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm; trật tự an toàn xã hội ở một số địa phương, đơn vị cơ sở chưa tốt. Chất lượng, hiệu quả hợp tác, đối ngoại để thu hút các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô một số mặt còn hạn chế.   
1.5. Về lãnh đạo công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị: Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ chính trị và chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn. Kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và Chỉ thị số 03 của Bộ Chính trị của một số cấp ủy còn hạn chế. Chất lượng tự phê bình, phê bình của một số tổ chức đảng, nhất là cấp chi bộ và đảng viên còn thấp; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm. Tính gương mẫu, tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo chưa cao. Tình trạng suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống và các biểu hiện tiêu cực khác trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chậm được khắc phục. Công tác kiểm tra, giám sát, quản lý, phân công nhiệm vụ cho đảng viên ở không ít tổ chức cơ sở đảng chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp. Việc thực hiện quy chế dân chủ có nơi còn mang tính hình thức.
Công tác chỉ đạo, quản lý điều hành của bộ máy hành chính ở một số cấp, ngành, lĩnh vực chưa thực sự quyết liệt, hiệu lực, hiệu quả còn hạn chế; một bộ phận cán bộ, đảng viên còn trì trệ, thiếu năng động, sáng tạo, thậm chí còn đùn đẩy, né tránh trách nhiệm; việc xử lý một số tập thể, cá nhân có sai phạm, vi phạm chưa kịp thời và chưa đủ mức giáo dục, răn đe. Cải cách hành chính còn nhiều việc phải làm. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức làm việc chưa nhiệt tình, năng động, sáng tạo, vẫn còn nặng tư duy, phong cách “xin - cho”, thậm chí có biểu hiện nhũng nhiễu, tiêu cực, gây khó khăn, bức xúc cho doanh nghiệp và công dân. Từ những khuyết điểm, yếu kém trên, nên vai trò gương mẫu đi đầu của Thủ đô Hà Nội chưa được phát huy rõ nét.
Hoạt động của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội ở một số địa phương chậm được đổi mới, hiệu quả thấp, kết quả công tác vận động quần chúng còn hạn chế.
2. Nguyên nhân chủ yếu
Nguyên nhân khách quan: Tình hình kinh tế, chính trị thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, những yêu cầu cao, có tính chất đặc thù của địa bàn Thủ đô; những hạn chế, yếu kém nội tại của đất nước đã tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến điều kiện lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ. Sự phối, kết hợp trong công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành giữa một số bộ, ngành Trung ương và Thành phố chưa kịp thời, chặt chẽ; một số cơ chế, chính sách vĩ mô thiếu đồng bộ, chưa thống nhất, chậm đổi mới; không ít văn bản quy phạm pháp luật chậm ban hành, có nội dung còn bất cập. Việc các thế lực thù địch, cơ hội chính trị cũng như các đối tượng gây mất trật tự an ninh luôn lấy Thủ đô là địa bàn trọng điểm tập trung hoạt động chống phá cùng với những biểu hiện mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã tác động tiêu cực tới nhận thức tư tưởng, đạo đức, lối sống, ý thức, trách nhiệm và lợi ích của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và quần chúng. Bên cạnh đó, quy mô, khối lượng, tính chất khó khăn của những công việc phải giải quyết hàng ngày, nhất là từ sau khi mở rộng địa giới hành chính Thủ đô đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao.
Nguyên nhân chủ quan: Công tác dự báo chưa tốt, có mặt còn thiếu chủ động và chưa sát với diễn biến phức tạp của tình hình. Năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành, hiệu quả giải quyết công việc ở một số cấp, ngành, lĩnh vực chưa thực sự quyết liệt, thiếu năng động, sáng tạo, có việc, có lúc còn trì trệ; sự phối hợp giữa ngành với ngành, giữa ngành với cấp trong chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện một số công việc, lĩnh vực được phân công, phân cấp, ủy quyền còn bị động, thiếu chặt chẽ, hiệu quả thấp; một bộ phận cán bộ, đảng viên đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Công tác kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm kỷ luật của nhiều đơn vị cơ sở chưa được thực hiện thường xuyên, kết quả còn hạn chế; chưa có các biện pháp chế tài đủ mạnh trong việc ngăn chặn, xử lý kịp thời các sai phạm và biểu hiện tiêu cực xảy ra trên địa bàn Thủ đô. 
Đánh giá tổng quát và kinh nghiệm
Năm năm qua, Đảng bộ thành phố Hà Nội đã nỗ lực phấn đấu, vận dụng sáng tạo, tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các Nghị quyết của Trung ương và của Thành ủy, trọng tâm là nghiên cứu, cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XV, lãnh đạo thực hiện tốt 9 chương trình công tác, 5 nhiệm vụ chủ yếu và 2 khâu đột phá của Thành ủy, tạo ra bước chuyển biến mới, toàn diện trên mọi lĩnh vực hoạt động của Đảng bộ.
Thủ đô Hà Nội đã phát huy ngày càng tốt vai trò là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Diện mạo Thành phố thay đổi nhanh chóng và khởi sắc. Đảng bộ Thủ đô vững mạnh, trưởng thành và đạt được những kết quả nổi bật: Kinh tế - xã hội tiếp tục phát triển; xây dựng, quản lý đô thị có nhiều tiến bộ; phát triển nông nghiệp và nông thôn đạt kết quả tích cực, trong đó, lĩnh vực xây dựng, phát triển hạ tầng giao thông và xây dựng nông thôn mới có tiến bộ rõ rệt. An sinh xã hội được bảo đảm; đời sống của nhân dân được cải thiện và tiếp tục được nâng cao. Chính trị - xã hội trên địa bàn luôn ổn định; an ninh, quốc phòng, đối ngoại được củng cố, tăng cường. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị có nhiều đổi mới và đạt được kết quả quan trọng. Tuy nhiên, với tinh thần thực sự cầu thị, Đảng bộ Thủ đô đã nghiêm túc chỉ rõ những hạn chế, yếu kém để có giải pháp khắc phục kịp thời.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XV Đảng bộ Thành phố, rút ra một số kinh nghiệm sau:
Một là, phải đặc biệt chú trọng thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy dân chủ và truyền thống đoàn kết, thống nhất, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân Thủ đô. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), trọng tâm là, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các biểu hiện tiêu cực khác.
Hai là, bám sát thực tiễn Thủ đô, dự báo đúng tình hình, chủ động giải quyết những vấn đề mới phát sinh; lắng nghe, tiếp thu ý kiến xây dựng, phản biện tích cực của nhân dân để kịp thời xác định, xây dựng và điều chỉnh chủ trương, chính sách, biện pháp cho phù hợp. Chủ động lãnh đạo, vận dụng sáng tạo, chỉ đạo thực hiện tốt các chủ trương, nghị quyết của Đảng và của Thành ủy.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền, chất lượng hoạt động của MTTQ và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp, tạo ra bước chuyển biến mạnh về kỷ luật, kỷ cương, ý thức, trách nhiệm, chất lượng phục vụ nhân dân của tổ chức và từng cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, địa phương, đơn vị.  
Bốn là, trong từng giai đoạn và yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, phải lựa chọn đúng và tập trung lãnh đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm và khâu đột phá; gắn kết chặt chẽ các mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản, lâu dài với chỉ đạo thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ cấp bách, trước mắt, tạo tiền đề và động lực phát triển toàn diện.
Năm là, phát huy thật tốt vai trò, trách nhiệm của Thành phố; đồng thời, phải tận dụng thời cơ, chủ động phối hợp, tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương, sự hợp tác của các bộ, ban, ngành, các tỉnh, thành phố trong cả nước, chủ động hội nhập quốc tế để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, nâng cao uy tín và vị thế Thủ đô.
II. NHÌN LẠI 30 NĂM ĐỔI MỚI Ở THỦ ĐÔ ([24])
1. Thành tựu cơ bản
Ba mươi năm qua (1986 - 2016), trải qua nhiều biến động phức tạp về tình hình chính trị, kinh tế thế giới và khu vực, đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, vượt qua những khó khăn, thử thách và yếu kém nội tại của nền kinh tế đất nước trong quá trình xây dựng, phát triển, Đảng bộ Thủ đô đã vận dụng sáng tạo, thực hiện đồng bộ sự nghiệp đổi mới của Đảng và đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, tạo sự chuyển biến toàn diện, rõ rệt trên các lĩnh vực của đời sống - xã hội Thủ đô.
Thành phố đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của kinh tế Thủ đô. Sau ba mươi năm, kinh tế Thủ đô tăng trưởng vượt bậc: tốc độ tăng GDP, từ mức 4,48% giai đoạn 5 năm đầu đổi mới (1986 - 1990), tăng lên mức 9,3% giai đoạn (2009 - 2015). GDP bình quân đầu người năm 2015, tăng gấp gần 6,4 lần so với năm 1990. Nhiều chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là lĩnh vực giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, v.v... tiếp tục giữ vị trí đứng đầu cả nước. Quan hệ sản xuất mới ngày càng được củng cố và phát triển. Chủ trương sắp xếp, chấn chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp và thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được chỉ đạo thực hiện quyết liệt, có hiệu quả. Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể được củng cố; kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển mạnh, có đóng góp ngày càng quan trọng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: từ công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ, sang dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị có tiến bộ vượt bậc, diện mạo Thủ đô ngày càng đổi mới, khang trang, văn minh, hiện đại. Hạ tầng kỹ thuật và xã hội từ đô thị đến nông thôn phát triển theo hướng đồng bộ, cơ bản đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH và đòi hỏi cấp bách của quá trình đô thị hóa nhanh, đặc biệt là từ sau khi Thủ đô được điều chỉnh, mở rộng địa giới hành chính, với quy mô dân số tăng hơn 1,5 lần và diện tích tự nhiên tăng gấp 3,6 lần so với Hà Nội trước đây.
Văn hóa - xã hội đạt được nhiều kết quả quan trọng, nổi bật trên các lĩnh vực: quản lý nhà nước, phát triển sự nghiệp văn hóa; bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Nhiều di sản của Hà Nội được quốc tế công nhận là di sản văn hóa thế giới ([25]). Xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh; phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; phát triển y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân; phát triển thể thao thành tích cao; bảo đảm an sinh xã hội, nhất là giảm nghèo, giải quyết việc làm, chăm sóc các đối tượng chính sách xã hội, trước hết là người có công với cách mạng, v.v... có chuyển biến tích cực; đời sống vật chất và tinh thần, chất lượng cuộc sống của nhân dân Thủ đô được cải thiện rõ rệt.  
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng có chuyển biến mạnh; hệ thống chính trị các cấp của Thành phố ngày càng vững mạnh và trưởng thành; tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp tích lũy được nhiều kinh nghiệm lãnh đạo, điều hành; tư duy, phương pháp lãnh đạo và phong cách làm việc tiếp tục được đổi mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của quá trình thực hiện công cuộc đổi mới.
Chính trị - xã hội trên địa bàn luôn ổn định; quốc phòng, an ninh được củng cố vững chắc; đối ngoại được mở rộng, tăng cường; niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đối với công cuộc đổi mới, đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển Thủ đô và đất nước được củng cố. Vị thế, uy tín của Thủ đô ngày càng được nâng cao đối với nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế. 
2. Hạn chế, khuyết điểm chủ yếu
Kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; tăng trưởng kinh tế chưa thực sự ổn định, bền vững; chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh chưa cao; chuyển dịch cơ cấu còn chậm so với yêu cầu. Quy hoạch, xây dựng, quản lý đô thị, bảo vệ môi trường, trên một số lĩnh vực chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn. Phát triển văn hóa - xã hội chưa xứng tầm với vai trò, vị thế của Thủ đô. Việc xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh chưa đạt kết quả mong muốn. 
Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị có mặt chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số cấp uỷ, tổ chức đảng, chất lượng của không ít cán bộ, đảng viên chưa ngang tầm đòi hỏi sự nghiệp đổi mới. Những biểu hiện suy thoái trong Đảng, trong xã hội, nhất là về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp chưa được ngăn chặn có hiệu quả.
3. Bài học kinh nghiệm
Một là, trong quá trình lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới, phải phát huy tốt vai trò, vị thế Thủ đô, chủ động vận dụng sáng tạo và cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn của Thành phố, chỉ đạo thực hiện thắng lợi mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH Thủ đô trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. 
Hai là, phải kiên trì và quyết tâm thực hiện công cuộc đổi mới, với phương châm: Đổi mới toàn diện, đồng bộ trên mọi lĩnh vực hoạt động của Đảng bộ Thành phố. Đồng thời, trong từng thời kỳ phải có lộ trình, bước đi, cách làm phù hợp, sáng tạo, kế thừa và tiếp tục phát triển những kinh nghiệm đã có để tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết của Trung ương và của Thành ủy. 
Ba là, tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất của Đảng bộ; xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị các cấp; phát huy dân chủ và sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp nhân dân Thủ đô, huy động có hiệu quả mọi nguồn lực tập trung cho đầu tư phát triển của Thành phố; chủ động phối hợp, tranh thủ sự quan tâm, giúp đỡ của Trung ương và sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ban, ngành và các địa phương trong cả nước vì sự nghiệp xây dựng, phát triển Thủ đô.
Bốn là, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải ra sức thực hiện tốt nhiệm vụ then chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng bộ Thủ đô thực sự trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của hệ thống chính trị Thành phố có chất lượng tốt, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, với Nhà nước và chế độ.
 PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, CHỈ TIÊU CHỦ YẾU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TRỌNG TÂM PHÁT TRIỂN THỦ ĐÔ 5 NĂM 2015 - 2020
 I. PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU 5 NĂM TỚI
1. Dự báo khái quát tình hình thế giới, khu vực, đất nước và Thủ đô trong những năm tới
Tình hình thế giới và khu vực, năm năm tới, dự báo sẽ có những thay đổi nhanh chóng và tiếp tục diễn biến phức tạp. Bên cạnh xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển, cũng xuất hiện nhiều thách thức mới: Kinh tế thế giới phục hồi chậm, nợ công kéo dài, sự bất ổn về tài chính - tiền tệ, biến động giá cả thị trường, v.v... Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, bạo loạn, khủng bố, chiến tranh mạng, v.v... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương vẫn là trung tâm phát triển năng động. Các nước ASEAN trở thành cộng đồng tiếp tục phát huy được vai trò quan trọng để duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác phát triển kinh tế trong khu vực, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới, đặc biệt là tình trạng tranh chấp chủ quyền biển đảo trên Biển Đông.
Tình hình trong nước, bên cạnh thuận lợi cơ bản: Sự ổn định về chính trị, những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội, những kết quả về hội nhập ngày càng sâu với khu vực, quốc tế và đặc biệt là kế thừa thành tựu 30 năm đổi mới, sẽ tạo ra thế và lực mới và là tiền đề quan trọng để phát triển đất nước. Đồng thời, cũng còn nhiều khó khăn, thách thức không thể xem thường: nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế, cạnh tranh ngày càng gay gắt, âm mưu “diễn biến hòa bình” và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch; nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, v.v...
Đối với Thủ đô Hà Nội, dự báo 5 năm tới, sẽ có những thời cơ, thuận lợi, khó khăn, thách thức đan xen. Kế thừa, phát huy những thành tựu, kinh nghiệm 30 năm thực hiện đổi mới và Nghị quyết Đại hội XV Đảng bộ Thành phố; vị thế, tiềm lực kinh tế, quốc phòng và uy tín Thủ đô ngày càng được nâng cao. Hà Nội tiếp tục nhận được sự quan tâm đặc biệt của Trung ương, sự hợp tác chặt chẽ của các bộ, ban, ngành và địa phương trong cả nước; đặc biệt là sự nỗ lực, ý chí quyết tâm cao và sự vào cuộc đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống chính trị các cấp và các tầng lớp nhân dân Thủ đô. Tuy nhiên, cũng còn nhiều khó khăn, thách thức lớn: Năng lực nội sinh còn hạn chế, nhất là về năng lực cạnh tranh, chất lượng tăng trưởng. Nhu cầu cho đầu tư phát triển trên nhiều lĩnh vực chủ yếu ngày càng lớn, nhưng nguồn lực còn hạn hẹp. Cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; dân số cơ học, mật độ dân cư ngày càng tăng, dẫn đến quá tải về điều kiện hạ tầng, gây bức xúc xã hội. Tình trạng suy thoái, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức chưa được ngăn chặn kịp thời.
Bối cảnh tình hình trên sẽ tác động trực tiếp tới sự phát triển của Hà Nội trong những năm tới, đòi hỏi Đảng bộ phải có quyết tâm cao, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức để thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.    
2. Phương hướng, mục tiêu phát triển Thủ đô đến năm 2020
Phương hướng chung
Quán triệt và vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị (khóa XI) về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2011 - 2020 và Luật Thủ đô; Đảng bộ Hà Nội tập trung lãnh đạo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XVI của Đảng bộ Thành phố, các chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch chung xây dựng Thủ đô; huy động tối đa các nguồn lực, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, xây dựng, phát triển Thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại, xứng đáng với vai trò là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế; là động lực phát triển của Vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước; có kinh tế - xã hội phát triển toàn diện, bền vững, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường; Đảng bộ và hệ thống chính trị các cấp thực sự trong sạch, vững mạnh.
Mục tiêu tổng quát
Xây dựng Đảng bộ thực sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng Thủ đô phát triển nhanh, bền vững. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng: dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, có nhiều sản phẩm với hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ngày càng đồng bộ, hiện đại, môi trường bền vững. Văn hóa - xã hội, giáo dục và đào tạo, y tế, khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao; quốc phòng - an ninh được củng cố vững chắc; quan hệ đối ngoại được mở rộng, nâng cao vị thế và uy tín của Thủ đô.
3. Nhiệm vụ chủ yếu và khâu đột phá
Năm nhiệm vụ chủ yếu
(1) Phát huy tiềm năng và thế mạnh của Thủ đô, đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức, đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, bảo đảm kinh tế Thủ đô phát triển nhanh, bền vững, gắn với bảo đảm an sinh xã hội, tiếp tục nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
(2) Làm tốt công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch, xây dựng, quản lý, phát triển đô thị và xây dựng nông thôn mới, gắn với quản lý tốt tài nguyên, cải thiện chất lượng môi trường.
(3) Tích cực phát triển sự nghiệp văn hóa, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh; bảo đảm an sinh, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ, văn hóa - xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô.
(4) Giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Tiếp tục mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động hợp tác, đối ngoại, hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế, uy tín của Thủ đô.
(5) Tiếp tục tạo chuyển biến mạnh về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, nâng cao vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý; xây dựng hệ thống chính trị các cấp thực sự trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển Thủ đô.
Ba khâu đột phá
(1) Phát triển đồng bộ, hiện đại hóa từng bước kết cấu hạ tầng đô thị và nông thôn.
(2) Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo bước chuyển biến mạnh về kỷ luật, kỷ cương, ý thức, trách nhiệm, chất lượng phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức; cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy, nâng cao hiệu quả đầu tư và sản xuất, kinh doanh trên địa bàn Thủ đô.
(3) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh và phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
4. Một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020
(1) Tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020: 8,5 - 9,0%, trong đó: dịch vụ 7,8 - 8,3%, công nghiệp - xây dựng 10 - 10,5%, nông nghiệp 3,5 - 4% ([26]).
(2) Cơ cấu kinh tế năm 2020: Dịch vụ 61 - 62%, công nghiệp - xây dựng 35 - 36,5%, nông nghiệp 2,5 - 3,0% ([27]).
(3) GRDP bình quân/người: 140 - 145 triệu đồng (tương đương 6.700 - 6.800 USD).
(4) Huy động vốn đầu tư xã hội giai đoạn 2016 - 2020: khoảng 2.500 - 2.600 nghìn tỷ đồng (tương đương mức tăng: 13 - 14%/năm).
(5) Tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới: 70 - 75% tổng số xã (tăng thêm 110 -130 xã so với năm 2015).
(6) Tỷ lệ tổ dân phố được công nhận và giữ vững danh hiệu Tổ dân phố văn hoá: 72%; làng được công nhận và giữ vững danh hiệu Làng văn hoá: 62%; gia đình được công nhận và giữ vững danh hiệu Gia đình văn hóa: 88%.
 (7) Tỷ lệ trường công lập (mầm non, tiểu học, THCS, THPT) đạt chuẩn quốc gia: 65-70%.
(8) Số giường bệnh/vạn dân: 23; số bác sĩ/vạn dân: 13,5; tỷ lệ xã, phường đạt chuẩn quốc gia về y tế (theo chuẩn mới của Bộ Y tế): 100%.
(9) Tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo: 70 - 75%.
(10) Tỷ lệ thất nghiệp thành thị: dưới 4%.
(11) Tỷ lệ hộ nghèo cuối kỳ: < 1,8%.
(12) Tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh: 100%, trong đó nước sạch: 50%; tỷ lệ hộ dân đô thị được sử dụng nước sạch: 95 -100%.
(13) Tỷ lệ rác thải được thu gom, xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường Việt Nam: khu vực đô thị 95 -100%; khu vực nông thôn 90-95%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường: 100%. Tỷ lệ cụm công nghiệp đang hoạt động và xây dựng mới có trạm xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn quốc gia tương ứng: 100%. Tỷ lệ  chất thải nguy hại được xử lý: 90 - 95%; tỷ lệ chất thải y tế được xử lý 95 - 100%.
(14) Kết nạp trên 12.000 đảng viên mới/năm.
(15) Tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ hàng năm: 70%.
(16) Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh hàng năm: 50%.
II. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức, đổi mới mô hình tăng trưởng, gắn với cơ cấu lại kinh tế Thủ đô bảo đảm mục tiêu phát triển nhanh, bền vững
Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng kết hợp hiệu quả giữa phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của kinh tế Thủ đô. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, phát triển kinh tế tri thức, nâng cao năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực, phát huy tiềm năng, lợi thế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Phát triển đồng bộ, vững chắc các loại thị trường. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cả 3 lĩnh vực: kinh tế ngành, kinh tế vùng và các thành phần kinh tế. Phát triển các ngành, lĩnh vực trình độ cao, chất lượng cao. Cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là hệ thống các ngân hàng thương mại; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các Tổng công ty và doanh nghiệp lớn; cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gắn với phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, bảo đảm quốc phòng - an ninh, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Định hướng phát triển trên các lĩnh vực chủ yếu sau:
Lĩnh vực dịch vụ: Tập trung phát triển mạnh các phân ngành, lĩnh vực Thủ đô có thế mạnh, nhất là các dịch vụ trình độ cao, chất lượng cao:
Tiếp tục phát triển hệ thống trung tâm thương mại, mạng lưới siêu thị, trung tâm bán buôn, chợ theo hướng văn minh, hiện đại và theo quy hoạch.
Phát triển một số ngành có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, như: dịch vụ hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, khoa học công nghệ.
Tập trung xây dựng du lịch Thủ đô phát triển mạnh cả về quy mô và chất lượng dịch vụ, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có giá trị tăng trưởng cao.
Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, như: Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán; từng bước xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính - ngân hàng trong khu vực. Phát triển các loại hình dịch vụ: logistics ([28]), tư vấn, giáo dục đào tạo, y tế, đô thị, văn hóa, thông tin, thể thao, việc làm.
Lĩnh vực công nghiệp - xây dựng: Tập trung phát triển nhanh một số ngành, sản phẩm công nghiệp có giá trị gia tăng lớn, ứng dụng công nghệ cao, thân thiện môi trường: công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp sạch, công nghiệp hỗ trợ, các ngành và sản phẩm khác có công nghệ cao.
Thu hút, kêu gọi đầu tư bảo đảm đủ nguồn vốn để hoàn thiện các khu, cụm công nghiệp hiện có. Xây dựng mới và mở rộng một số khu công nghiệp: Khu công nghiệp Quang Minh II, khu công nghiệp sạch Sóc Sơn, khu công nghiệp hỗ trợ Nam Hà Nội, các Khu công nghiệp công nghệ thông tin Sài Đồng - Long Biên, Đông Anh và các khu công nghiệp, cụm công nghiệp theo quy hoạch. Tiếp tục thực hiện di chuyển những cơ sở sản xuất gây ô nhiễm cao, điều kiện sản xuất không thích hợp ra xa khu vực nội đô. Hoàn thiện xây dựng, vận hành các trạm xử lý nước thải tại các cụm công nghiệp hiện có theo hướng tiết kiệm, hiệu quả.
Tiếp tục phát triển các làng nghề, phố nghề truyền thống theo hướng ứng dụng kỹ thuật, công nghệ cao. Kết hợp giữa phát triển các làng nghề với phát triển du lịch. Xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề tập trung theo quy hoạch, tách sản xuất gây ô nhiễm môi trường ra khỏi khu dân cư.
  Lĩnh vực nông nghiệp: Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, ứng dụng công nghệ cao và kỹ thuật sản xuất tiên tiến, tạo ra sản phẩm sạch, chất lượng cao. Mở rộng các vùng chuyên canh, các vành đai xanh, các tuyến nông nghiệp sinh thái và xây dựng các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo quy hoạch.
Ưu tiên phát triển lúa hàng hóa chất lượng cao; tăng sản xuất rau an toàn, hoa cây cảnh, cây ăn quả, nhằm nâng cao hiệu quả canh tác. Phát triển chăn nuôi, thủy sản mô hình trang trại tập trung ngoài khu dân cư, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm và môi trường sinh thái. Tăng nhanh đàn bò sữa, phát triển đàn bò thịt. Phát triển thủy sản theo hướng tập trung thâm canh, tăng nhanh năng suất, phát triển bền vững.
Gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ nông sản trên cơ sở phát triển mạnh các hình thức hợp tác, liên kết giữa hộ gia đình với các tổ chức tín dụng, tổ chức khoa học, công nghệ và doanh nghiệp. Khuyến khích tổ chức sản xuất khép kín, liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa.
Phát triển, quản lý, bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái, cảnh quan du lịch, bảo tồn quỹ gen. Ưu tiên tập trung phát triển và tăng tỷ lệ rừng kinh tế trong tổng diện tích rừng của toàn Thành phố; nâng cao hiệu quả kinh tế của rừng trồng đáp ứng tiêu chí bền vững và phát triển dịch vụ môi trường rừng.
2. Đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và phát triển các thành phần kinh tế; tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
Triển khai thực hiện Đề án tái cơ cấu DNNN, tập trung giải quyết dứt điểm các vướng mắc trong công tác sắp xếp, cổ phần hóa, tiến hành thoái vốn theo kế hoạch, sắp xếp lại các đơn vị thành viên. Tăng cường giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp có vốn nhà nước; nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong quản lý và sử dụng vốn, tài sản nhà nước. Hoàn thành kế hoạch sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2016 - 2020.
Tiếp tục củng cố quan hệ sản xuất, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường trên địa bàn, phát triển mạnh các thành phần kinh tế, đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp. Tăng cường quản lý nhà nước trên các lĩnh vực: bất động sản, đầu tư, xây dựng, tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch, v.v... Tạo môi trường sản xuất, kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp đầu tư, phát triển theo quy định của pháp luật; phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác xã và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
3. Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
Đẩy mạnh thực hiện các giải pháp về xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển Thủ đô. Phát triển mạnh hệ thống hạ tầng dịch vụ, logistics cả về số lượng và chất lượng. Quan tâm quy hoạch mạng lưới và xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng hóa sản phẩm có tính liên kết vùng, nhất là sản phẩm du lịch gắn với các di sản Thế giới và quốc gia trên địa bàn Thủ đô và trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Hoàn thành xây dựng, khai thác có hiệu quả các khu, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao, làng nghề tập trung trên địa bàn. Ưu tiên đầu tư và đẩy mạnh thu hút đầu tư xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nhất là các dự án, công trình trọng điểm.
Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tập trung cho đầu tư phát triển, mở rộng liên kết kinh tế, đẩy mạnh xã hội hóa. Thực hiện các biện pháp đồng bộ cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh bảo đảm thông thoáng, minh bạch, bình đẳng, phù hợp tiến trình hội nhập quốc tế; tăng cường xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch. Thực hiện Đề án tái cơ cấu đầu tư công; huy động tối đa nguồn vốn ngân sách cho đầu tư phát triển theo luật đầu tư công; sử dụng có hiệu quả các quỹ có nguồn gốc ngân sách phục vụ các dự án trên địa bàn; đẩy mạnh các hình thức huy động xã hội hóa; đầu tư theo hợp đồng đối tác công tư để tăng nguồn lực đầu tư cho phát triển. Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải gắn với tái cơ cấu đầu tư công; kiểm soát chặt chẽ và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn; chú trọng giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư.
Tăng cường các giải pháp thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đối với các dự án đã có chủ trương đầu tư và đang thực hiện. Tiếp tục xây dựng định hướng thu hút, danh mục dự án kêu gọi đầu tư bằng nguồn vốn ODA, FDI trên các lĩnh vực: cơ sở hạ tầng, công nghiệp “xanh”, thân thiện với môi trường, điện tử công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ v.v...
Thực hiện tốt các giải pháp huy động, khai thác tiềm năng, nguồn lực trên địa bàn, nhất là tăng cường sử dụng hiệu quả tài nguyên đất, tài nguyên nước, nguồn nhân lực chất lượng cao, tiềm lực khoa học và công nghệ. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, thu hút đầu tư phát triển, đi đôi với quản lý chặt chẽ nguồn lực.
III. QUY HOẠCH, XÂY DỰNG, QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ
1. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch
Hoàn thiện, tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả quy hoạch phát triển Thủ đô, trọng tâm là công tác lập, thẩm định, phê duyệt, triển khai thực hiện quy hoạch và quản lý quy hoạch phù hợp với quy định của pháp luật. Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành Trung ương, các tỉnh, thành trong Vùng Thủ đô, rà soát, điều chỉnh, thực hiện các quy hoạch có liên quan; chủ động chuẩn bị, triển khai thực hiện Thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch chi tiết xây dựng hai bên tuyến đường Nhật Tân - Nội Bài và cơ chế, chính sách đặc thù của Thủ tướng Chính phủ để đầu tư phát triển khu vực trên.
Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý nhà nước về công tác quy hoạch, tăng cường sự tham gia, giám sát của các tổ chức, đoàn thể, cộng đồng và thực hiện các quy hoạch, dự án được duyệt. Chủ động phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan để kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong triển khai các quy hoạch ngành, chuyên ngành.
Hoàn thành quy hoạch không gian kiến trúc đô thị tiêu biểu; chú trọng bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa, không gian, cảnh quan, kiến trúc, phố cổ, làng cổ, thành cổ đặc trưng của Thủ đô.  
2. Phát triển đồng bộ, hiện đại hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị
Tập trung đầu tư, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị theo hướng đồng bộ, văn minh, hiện đại, thân thiện với môi trường, đáp ứng yêu cầu phát triển đô thị, nhất là hạ tầng kỹ thuật khung: giao thông, cấp, thoát nước, mạng lưới điện, viễn thông, v.v...
Ưu tiên đầu tư hệ thống hạ tầng giao thông phục vụ phát triển đô thị, tập trung phát triển giao thông công cộng, xây dựng lộ trình từng bước hạn chế phương tiện giao thông cá nhân sau năm 2020 nhằm giảm ùn tắc giao thông. Hoàn thiện và đưa vào sử dụng hai tuyến đường sắt đô thị: Hà Đông - Cát Linh, Nhổn - Ga Hà Nội, triển khai tuyến đường sắt Nam Thăng Long - Trần Hưng Đạo, nghiên cứu, kêu gọi đầu tư các tuyến đường sắt đô thị còn lại. Cơ bản hoàn thành các tuyến đường vành đai: vành đai 1 (đoạn Hoàng Cầu - Giảng Võ); vành đai 2 (đoạn Ngã Tư Vọng - Vĩnh Tuy), vành đai 2 trên cao (Vĩnh Tuy - Ngã Tư Sở); cải tạo, nâng cấp các trục đường hướng tâm như đường quốc lộ 6, trục đường Hoàng Quốc Việt kéo dài, các tuyến đường tỉnh lộ qua các huyện; các tuyến trục giao thông đô thị, v.v… Tiếp tục xây dựng, hiện đại hóa hệ thống quản lý giao thông và mạng lưới giao thông tĩnh. Quy hoạch, xây dựng và phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông ở ngoại thành để thực hiện di dời các cơ sở công nghiệp, trường đại học, các trung tâm, viện nghiên cứu và bệnh viện ra khỏi khu vực nội thành.
Hiện đại hóa hệ thống cơ sở hạ tầng thông tin - truyền thông, bưu chính - viễn thông, phát thanh, truyền hình, v.v… đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Đẩy nhanh tiến độ cải tạo, nâng cấp hệ thống cung cấp điện, nước. Tiếp tục cải tạo, nâng cấp, phát triển các loại hình chiếu sáng.
Huy động mọi nguồn lực để sớm hoàn thành xây dựng, cải tạo hệ thống cây xanh, công viên, vườn hoa và hồ nước trên địa bàn Thành phố theo quy hoạch đã được duyệt. Tập trung đầu tư phát triển hệ thống thủy lợi, thoát nước và xử lý nước thải: Cải tạo các tuyến sông, mương thoát nước trong khu vực nội thành; triển khai dự án thoát nước lưu vực sông Nhuệ, Đáy. Xây dựng các nhà máy và hệ thống thu gom nước thải tập trung và các trạm xử lý nước thải cục bộ, đặc biệt ở các khu đô thị mới. Xây dựng, mở rộng một số nhà máy cấp nước, khai thác nguồn nước mặt, ưu tiên nâng cao chất lượng cấp nước khu vực đô thị và phát triển cấp nước sạch khu vực nông thôn.   
Tiếp tục triển khai chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở, xây dựng các khu đô thị mới đồng bộ, hiện đại, kết hợp với chỉnh trang các đô thị cũ. Rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án phát triển đô thị; phấn đấu đưa tỷ lệ diện tích nhà ở đô thị bình quân đầu người toàn Thành phố đến năm 2020 đạt 29 m2/người; tập trung phát triển nhà ở xã hội. Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút các nguồn lực kinh tế tham gia cải tạo chung cư cũ trên địa bàn. 
Thu hút đầu tư và tập trung phát triển các đô thị vệ tinh theo lộ trình. Phối hợp với các bộ, ngành Trung ương triển khai đồng bộ, có hiệu quả các công trình trọng điểm quốc gia trên địa bàn.
3. Tăng cường công tác quản lý đô thị, đặc biệt là trật tự xây dựng, an toàn giao thông, kỷ cương và văn minh đô thị
 Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quy hoạch, đất đai, bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả. Phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đạt trên 95% diện tích cần cấp (trong đó, đất tổ chức đạt 99%, đất ở đạt 98%). Tập trung thực hiện công tác thống kê dữ liệu và tích hợp dữ liệu quản lý đất đai.
Tăng cường kiểm tra, giám sát xây dựng theo quy hoạch và giấy phép xây dựng. Đẩy mạnh phân cấp trong lĩnh vực quản lý trật tự xây dựng. Thực hiện có hiệu quả việc khai thác, sử dụng hồ nước, công viên, vườn hoa, cây xanh, hệ thống chiếu sáng; tăng cường trật tự, văn minh, mỹ quan đô thị, nhất là trật tự, kỷ cương an toàn giao thông, hạn chế ùn tắc, tai nạn giao thông.
Thực hiện tốt công tác quản lý dân cư theo Luật Thủ đô. Phối hợp chặt chẽ với các tỉnh, thành, nhất là các địa phương thuộc Vùng Thủ đô trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng các khu đô thị vệ tinh và giải quyết việc làm, nhằm hạn chế tình trạng di dân tự phát vào Hà Nội.
IV. XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI, CHĂM LO ĐỜI SỐNG CỦA NÔNG DÂN
1. Tiếp tục xây dựng, phát triển nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới theo quy hoạch, có kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao; cơ sở hạ tầng từng bước đồng bộ, hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, giàu bản sắc văn hóa, môi trường sinh thái, cảnh quan sạch, đẹp, gắn kết hợp lý giữa phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Phấn đấu đến năm 2020, có trên 70% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Huy động mạnh mẽ các nguồn lực, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; ưu tiên cải tạo, nâng cấp, phát triển các công trình hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất, đời sống, bảo vệ môi trường. Thực hiện nếp sống văn minh và giữ gìn cảnh quan môi trường sạch, đẹp. Có cơ chế, chính sách đặc thù về đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất vùng đồng bào dân tộc miền núi của Thủ đô để sớm hoàn thành mục tiêu giảm nghèo bền vững và phấn đấu đến năm 2020 không còn xã, thôn đặc biệt khó khăn.
Tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở nông thôn. Thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn nông thôn.
2. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, gắn với thực hiện tốt các chính sách xã hội đối với nông dân Thủ đô
Từng bước nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của nông dân, phấn đấu đến năm 2020, bình quân đạt 40 - 45 triệu đồng/người/năm. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm, đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Phấn đấu tỷ lệ lao động nông nghiệp còn dưới 20% lao động xã hội. Giải quyết tốt các vấn đề dân sinh bức xúc. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, mục tiêu của Thành phố về giảm nghèo. Thường xuyên chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân, nhất là các hộ nghèo, các hộ cận nghèo, gia đình chính sách và các khu vực xa trung tâm Thành phố.
Huy động đầu tư xây dựng, nâng cấp, đồng thời sử dụng, khai thác có hiệu quả các công trình văn hóa, thể thao, hạ tầng thông tin, giải trí, thư viện nông thôn để từng bước cải thiện và nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nông dân. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng làng, xã văn hóa, thực hiện tốt nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Chú trọng, quan tâm công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân khu vực nông thôn, mở rộng hình thức bảo hiểm y tế tự nguyện cho nông dân, đạt 70 - 80% trở lên.
V. PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, XÂY DỰNG NGƯỜI HÀ NỘI THANH LỊCH, VĂN MINH
1. Phát triển văn hóa
Chỉ đạo đẩy mạnh triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về phát triển văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của Thủ đô và đất nước. Quan tâm phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa; nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hóa. Hoàn thành xây dựng và tăng cường quản lý, đầu tư, khai thác có hiệu quả các thiết chế văn hóa từ Thành phố đến cơ sở, nhất là những công trình văn hóa trọng điểm, tiêu biểu.
Tăng cường quản lý nhà nước đối với các hoạt động, dịch vụ văn hóa, tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, các hiệp hội nghề nghiệp. Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể, cộng đồng dân cư trong việc tổ chức và quản lý hoạt động văn hóa. Thực hiện tốt công tác quản lý, quan tâm đầu tư bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị các di sản và bản sắc văn hóa; giải quyết hợp lý yêu cầu bảo tồn và phát triển. Phát huy có chọn lọc các loại hình văn hóa phi vật thể.
Đẩy mạnh phát triển văn học, nghệ thuật, phấn đấu có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, phản ảnh chân thật, sinh động, sâu sắc đời sống, truyền thống văn hóa, lịch sử, cách mạng, công cuộc đổi mới của Thủ đô và đất nước. Nâng cao chất lượng hoạt động của các hội và Liên hiệp hội văn học, nghệ thuật. Khuyến khích các tầng lớp nhân dân Thủ đô sáng tạo, trao truyền và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.
Chú trọng công tác quy hoạch, quản lý và nâng cao chất lượng hoạt động báo chí, xuất bản, thông tin, truyền thông, thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, bảo đảm tính tư tưởng, giáo dục, nhân văn và khoa học.
2. Tiếp tục xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh
Thực hiện tốt mục tiêu chăm lo xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh, phát triển toàn diện. Trọng tâm là, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống, nhân cách, văn hóa giao tiếp, ứng xử. Tạo chuyển biến mạnh về nhận thức, ý thức chấp hành và trách nhiệm thực thi pháp luật; tự hào và tôn vinh truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc và Thủ đô. 
Khôi phục, kế thừa, phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa, nhân văn gia đình truyền thống của Thăng Long - Hà Nội, phù hợp với những yêu cầu của nếp sống công nghiệp, đô thị hiện đại; xây dựng và phát huy lối sống "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người"; phê phán, khắc phục những mặt còn hạn chế trong giao tiếp, ứng xử, thái độ đối với cộng đồng của một bộ phận cư dân Hà Nội. Triển khai thực hiện bộ quy tắc ứng xử trong cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư trên địa bàn. Bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa, nghệ thuật của mỗi người dân và cộng đồng.
Phát huy hiệu quả các phong trào văn hóa - xã hội và tôn vinh những danh hiệu thi đua, điển hình tiên tiến. Đổi mới cơ chế, chính sách và nâng cao hiệu quả hoạt động thu hút và sử dụng nhân tài.
VI. PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
1. Phát triển giáo dục và đào tạo
Phát huy tối đa các nguồn lực để xây dựng Thủ đô thực sự là trung tâm lớn, tiêu biểu hàng đầu của cả nước về giáo dục, đào tạo; thực hiện tốt nhiệm vụ chiến lược: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng, phát triển nhân tài; tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô, đất nước và nhu cầu học tập của nhân dân; phấn đấu đến năm 2025 giáo dục Thủ đô đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ý thức, trách nhiệm công dân cho học sinh; tăng cường trang bị và nâng cao hiệu quả sử dụng kiến thức ngoại ngữ, tin học; đẩy mạnh thực hiện học đi đôi với hành. Giữ vững và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục ở mỗi cấp học; phấn đấu đến năm 2020 có 95% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ THPT và tương đương, 90% học sinh học 2 buổi/ngày.
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện giáo dục. Bảo đảm 100% đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục đạt chuẩn nghề nghiệp.
Huy động các nguồn lực trong xã hội, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các trường, lớp theo hướng đồng bộ, hiện đại. Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiên cố hóa, hiện đại hóa trường học, lớp học; có cơ chế, chính sách hỗ trợ để có mặt bằng xây dựng trường; bảo đảm đến năm 2020 số học sinh mỗi lớp, số lớp trong mỗi trường không vượt quá quy định của từng cấp học, 100% xã, phường, thị trấn có trung tâm học tập cộng đồng. Đẩy mạnh xây dựng mô hình trường chất lượng cao theo Luật Thủ đô; ưu tiên đầu tư xây dựng các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông chất lượng cao; khuyến khích phát triển các loại hình trường ngoài công lập đáp ứng nhu cầu xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học; khuyến khích liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín.
2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Tập trung đào tạo, chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học - cao đẳng, bảo đảm cơ cấu ngành, nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực Thủ đô.
Có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề gắn với tiếp nhận, sử dụng lao động. Chú trọng đào tạo nhân lực có tay nghề cao đáp ứng nhu cầu đào tạo lao động kỹ thuật trong nước, khu vực và quốc tế; phấn đấu đến năm 2020, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao của Thủ đô có đủ năng lực đào tạo tương đương khu vực và quốc tế.
VII. PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
 1. Phát triển khoa học và công nghệ
Khai thác, phát huy có hiệu quả tiềm lực, xây dựng Hà Nội trở thành trung tâm sáng tạo, ứng dụng và chuyển giao công nghệ hàng đầu của cả nước và có vị trí cao về một số lĩnh vực trong khu vực. Đẩy mạnh phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, phát triển kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của kinh tế Thủ đô. Đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước; quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống các cơ quan nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ của Thành phố. Hoàn thành đúng tiến độ, đưa vào sử dụng có hiệu quả các dự án xây dựng hạ tầng khoa học và công nghệ đã được phê duyệt. Phối hợp với các cơ quan Trung ương đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án Khu công nghệ cao Hòa Lạc, tạo động lực cho kinh tế Thủ đô phát triển nhanh, bền vững.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách phát triển khoa học và công nghệ, trong đó đột phá là cơ chế, chính sách tài chính, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và đặc thù của Thủ đô. Nghiên cứu xây dựng cơ chế đặc thù đầu tư phát triển các ngành, cơ sở, tổ chức khoa học và công nghệ mũi nhọn, trọng điểm, nhất là các ngành công nghệ cao, các chương trình sản phẩm của Hà Nội. Tiếp tục hoàn thiện, thực hiện tốt chính sách thu hút nhân tài và nguồn nhân lực có trình độ cao ở trong nước, nước ngoài phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển Thủ đô.
2. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, đầu tư và chuyển giao các thành tựu khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô
Chú trọng đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, đầu tư, chuyển giao các thành tựu khoa học và công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý thị trường khoa học và công nghệ, tạo cơ chế thông thoáng, đẩy mạnh việc thương mại hóa, quy định rõ về tiêu chuẩn, chất lượng, tính khả thi, hiệu quả của sản phẩm khoa học và công nghệ trước khi ứng dụng vào thực tiễn. Phấn đấu đến năm 2020, sản phẩm ứng dụng công nghệ đạt khoảng 50% GDP, tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị đạt 20%/năm, giá trị giao dịch của thị trường khoa học và công nghệ tăng trung bình 16 - 18%/năm.
Đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa, mở rộng liên kết, hợp tác phát triển, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Xây dựng và chỉ đạo triển khai đề án hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ; cơ chế phối hợp với các doanh nghiệp, học viện, trường đại học, trung tâm nghiên cứu trên địa bàn.
VIII. BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA NHÂN DÂN
1. Phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân
Sắp xếp, kiện toàn, nâng cao chất lượng mạng lưới y tế dự phòng, chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Đầu tư phát triển mạng lưới y tế dự phòng đủ khả năng dự báo, giám sát, phát hiện và khống chế các dịch bệnh, không để dịch lớn xảy ra,  giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong. Phát triển y tế phổ cập, bác sỹ gia đình, gắn với chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Hiện đại hóa và phát triển y học cổ truyền, kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại. 
Nâng cao chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng ở tất cả các tuyến; giảm tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trên. Củng cố, nâng cao năng lực hoạt động các bệnh viện tuyến Thành phố; sắp xếp hợp lý các bệnh viện đa khoa tuyến huyện theo địa bàn cụm dân cư. Tiếp tục kiện toàn tổ chức mạng lưới, củng cố và hoàn thiện các trung tâm y tế, phòng khám đa khoa, trạm y tế xã, phường, v.v… cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị, nâng cao chất lượng dịch vụ và chất lượng phục vụ của y tế tuyến cơ sở. 
Chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin, đào tạo nhân lực có tay nghề cao; tập trung xây dựng, phát triển một số lĩnh vực khám chữa bệnh đạt trình độ chuyên sâu, chất lượng cao hàng đầu cả nước; đẩy mạnh xã hội hóa đi đôi với tăng cường quản lý trong lĩnh vực y tế, nhất là hoạt động y, dược tư nhân. 
2. Thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hóa gia đìnhchăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em
Về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình: Chủ động duy trì mức sinh thấp hợp lý, khống chế tốc độ tăng tỷ số giới tính khi sinh. Tăng cường lồng ghép các yếu tố về dân số vào việc hoạch định chính sách, lập quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành. Tiếp tục đổi mới công tác truyền thông, tăng cường phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về dân số, sức khỏe sinh sản, đặc biệt là chính sách, pháp luật về kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh.   Nâng cao chất lượng dân số, kế hoạch hóa gia đình, tăng khả năng tiếp cận dịch vụ sức khỏe sinh sản có chất lượng. Triển khai thực hiện chiến lược dân số, sức khỏe sinh sản, giai đoạn 2016 - 2020. Hỗ trợ việc chuyển giao công nghệ, nhằm mở rộng dịch vụ sàng lọc trước, sau sinh và điều trị các bệnh khuyết tật về gen, bệnh hiểm nghèo. 
Về chính sách chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em: Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình hành động Quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2011-2020, các chính sách, văn bản pháp lý phù hợp với Công ước Quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em, các văn bản quy phạm, quy định khác mà Nhà nước và Thành phố đã ban hành, hướng dẫn thực hiện, bảo đảm trẻ em, nhất là trẻ em nghèo, đối tượng chính sách và có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, được thụ hưởng đầy đủ các quyền lợi.
3. Xây dựng nền thể dục, thể thao tiên tiến, nâng cao thể chất người Hà Nội
Phấn đấu xây dựng, phát huy vị trí dẫn đầu cả nước của thể thao Hà Nội và cùng cả nước, đưa nền thể thao Việt Nam vào nhóm nước đứng đầu khu vực Đông Nam Á. Kết hợp hài hòa giữa TDTT quần chúng và thể thao chuyên nghiệp, đặc biệt là thể thao thành tích cao theo hướng tiên tiến, hiện đại, hội nhập quốc tế.
Đẩy mạnh phát triển TDTT quần chúng, nâng cao sức khỏe, thể lực, tầm vóc và đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân; nhất là thế hệ trẻ Thủ đô. Mở rộng các phong trào TDTT, các loại hình tập luyện, thi đấu; tuyên truyền, giáo dục thực hiện tốt cuộc vận động "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại". Phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ dân số tập luyện TDTT thường xuyên đạt 41 - 42%; tỷ lệ gia đình thể thao đạt 30 - 35%; có trên 3.500 câu lạc bộ TDTT.
Tiếp tục đầu tư có trọng tâm, trọng điểm và phát triển mạnh thể thao thành tích cao, trong đó ưu tiên phát triển những môn thế mạnh của Hà Nội. Phát triển đội ngũ vận động viên bảo đảm đồng bộ, từ phát hiện năng khiếu, đến đào tạo vận động viên năng khiếu nghiệp dư và vận động viên năng khiếu tập trung. Tạo điều kiện cho các vận động viên tài năng tham gia thi đấu trên các đấu trường trong nước, khu vực và quốc tế. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, y sinh học thể thao hiện đại. Xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách đãi ngộ, khuyến khích vật chất, tinh thần đặc thù đối với đội ngũ vận động viên, huấn luyện viên và chuyên gia thể thao thành tích cao. 
Đầu tư nâng cấp, xây mới một số khu liên hợp, trung tâm thể thao, cơ sở TDTT trọng điểm, đáp ứng yêu cầu đào tạo, huấn luyện, thi đấu và tổ chức các giải đấu trong nước, quốc tế. Tăng cường quản lý, phát huy hiệu quả các công trình thể thao, các trung tâm TDTT ở các quận, huyện, thị xã.
4. Phát triển thị trường lao động, đẩy mạnh giải quyết việc làm
Tăng cường phát triển thị trường lao động trong mối quan hệ hữu cơ với phát triển các thị trường khác, như: vốn, đất đai, khoa học và công nghệ, đồng thời gắn kết với đẩy mạnh giải quyết việc làm và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô. Tích cực hỗ trợ, duy trì việc làm ổn định cho người lao động và bảo đảm thực hiện tốt phúc lợi xã hội; đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
Đẩy mạnh thực hiện các chương trình dạy nghề, nhất là dạy nghề cho lao động nông thôn, gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Tăng cường công tác xã hội hóa trong lĩnh vực đào tạo nghề; nâng cao tỷ lệ lao động đã qua đào tạo.
5. Bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện tốt các chính sách xã hội, chính sách đối với người có công và chính sách dân tộc
Triển khai thực hiện đồng bộ các chính sách xã hội, tập trung cho mục tiêu giảm nghèo bền vững, tăng giàu, nâng cao phúc lợi xã hội, hướng tới phát triển bền vững. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, mở rộng đối tượng thuộc diện thụ hưởng chính sách, chủ động bố trí nguồn lực và tăng khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội, nhất là y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở, v.v...
Thường xuyên quan tâm, chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho các đối tượng chính sách, người có công, người cao tuổi, hộ nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” bằng các chương trình cụ thể và việc làm thiết thực. Thực hiện tốt các chính sách phát triển vùng đồng bào dân tộc của Thủ đô.
6. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm và huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân Thủ đô tích cực đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội. Tiếp tục nhân rộng và nâng cao chất lượng mô hình xã, phường, địa bàn dân cư, cơ quan, trường học không có tệ nạn xã hội.
Nâng cao chất lượng quản lý, giáo dục, chữa trị tại các trung tâm chữa bệnh giáo dục lao động xã hội và trung tâm quản lý sau cai nghiện ma túy. Khuyến khích việc xã hội hóa công tác cai nghiện tự nguyện. Giảm dần tội phạm về ma túy và số người nghiện; giảm tỷ lệ tái nghiện sau cai. Quan tâm thực hiện hỗ trợ, tư vấn, dạy nghề và tạo việc làm cho các đối tượng sau cai nghiện và mại dâm đã được giáo dục.
IX. QUẢN LÝ, SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN; BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG; PHÒNG, CHỐNG THIÊN TAI, CỨU NẠN, CỨU HỘ, ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
1. Tiếp tục tăng cường quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả và bền vững tài nguyên
Xây dựng, thực hiện đồng bộ, có hiệu quả chiến lược, quy hoạch, kế hoạch bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý các loại tài nguyên đất, khoáng sản, nước, rừng, nguồn lợi thủy sản, năng lượng tái tạo. Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới để sản xuất các loại nguyên, nhiên, vật liệu mới có thể thay thế các loại vật liệu truyền thống. Thực hiện các chế tài thúc đẩy sử dụng chất thải có thể tái chế làm nguyên liệu đầu vào cho các ngành sản xuất công nghiệp: lựa chọn công nghệ tái chế, thu hồi là công nghệ chủ đạo; hướng tới mô hình xử lý rác thải 3R (giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế) hoàn chỉnh.
Xây dựng, thực hiện các cơ chế quản lý, giám sát minh bạch việc sử dụng các loại tài nguyên; kiểm soát chặt chẽ các hoạt động thực hiện đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Hoàn thành đánh giá trữ lượng, chất lượng và xu hướng diễn biến của các nguồn tài nguyên nước để quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững; cải tạo, phục hồi các hồ nước, dòng sông, đoạn sông, nguồn nước bị ô nhiễm, cạn kiệt.
2. Tích cực bảo vệ môi trường
Đẩy mạnh thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chương trình, mục tiêu quốc gia về bảo vệ môi trường. Xây dựng, triển khai thực hiện kế hoạch bảo vệ môi trường đối với các ngành, lĩnh vực, các địa phương trên địa bàn, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các quy hoạch, kế hoạch, dự án đã được phê duyệt. Khuyến khích đầu tư bảo vệ môi trường bằng nguồn vốn xã hội hóa. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm, đẩy mạnh các hoạt động của cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm. Tập trung xử lý kịp thời các điểm gây ô nhiễm môi trường, nhất là ở các làng nghề, các khu, cụm công nghiệp. Xử lý trên 85% chất thải nguy hại, trên 95% chất thải y tế.
Quy hoạch đồng bộ hệ thống cấp, thoát nước giữa các khu đô thị mới và cũ. Cải tạo, xây dựng hệ thống thoát nước, giải quyết hiệu quả tình trạng ngập úng. Xây dựng hệ thống thu gom nước thải và xử lý 100% nước thải các khu, cụm công nghiệp, 80% làng nghề, trên 80% nước thải sinh hoạt. Triển khai ứng dụng công nghệ mới, xử lý triệt để ô nhiễm môi trường nước của hệ thống hồ nước trên địa bàn. Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án cải tạo môi trường sông Nhuệ - Đáy và Kế hoạch di dời các cơ sở gây ô nhiễm môi trường theo quy hoạch xây dựng đô thị trên địa bàn Thành phố.
3. Chủ động phòng, chống thiên tai, cứu nạn, cứu hộ, ứng phó với biến đổi khí hậu
Xây dựng, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch khả thi của Thành phố về phòng, chống thiên tai, cứu nạn, cứu hộ, ứng phó với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm về phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ, ứng phó với biến đổi khí hậu. Tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo, thường xuyên cập nhật, hoàn thiện các phương án, chủ động phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chủ động chuẩn bị các điều kiện, phương tiện phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai phù hợp với từng ngành, lĩnh vực, vùng, miền, đặc biệt khu vực vùng núi. Hiện đại hóa trang thiết bị và xây dựng lực lượng phục vụ tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ, phòng cháy, chữa cháy từng bước hiện đại.
X. GIỮ VỮNG AN NINH CHÍNH TRỊ, TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI, CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG
1. Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm tốt an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô
Trong mọi tình huống phải tập trung lãnh đạo, giữ vững ổn định chính trị - xã hội; bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu, sự kiện quan trọng diễn ra trên địa bàn, tạo môi trường hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn để xây dựng, phát triển Thủ đô, đất nước.
Tăng cường lãnh đạo công tác bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân Thủ đô về xây dựng thế trận an ninh nhân dân, kết hợp gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức, trách nhiệm, tinh thần cảnh giác cách mạng của cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân, phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, các lực lượng có liên quan chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không để xảy ra các tình huống phức tạp, bất ngờ, các hoạt động khủng bố, phá hoại, gây rối, bạo loạn, v.v.. nhất là tại một số địa bàn tiềm ẩn phức tạp. Thực hiện tốt nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên là giữ vững an ninh, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô.
Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm. Nâng cao chất lượng công tác cải cách tư pháp. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, phòng, chống các loại tội phạm và vi phạm pháp luật. Chú trọng đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm: tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm sử dụng công nghệ cao, v.v... Ngăn chặn, xử lý kịp thời các tụ điểm phức tạp về trật tự an toàn xã hội.
Xây dựng lực lượng công an trong sạch, vững mạnh, chính quy, từng bước hiện đại; phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư lệnh Thủ đô, lực lượng vũ trang trên địa bàn và công an các tỉnh, thành phố trong cả nước; tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống các loại tội phạm. Thường xuyên củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các lực lượng trực tiếp làm công tác phòng, chống tội phạm, cảnh sát cơ động. Nâng cao hiệu quả của lực lượng cảnh sát khu vực, công an phụ trách xã, phường, thị trấn và lực lượng bảo vệ dân phố, dân phòng, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp, thực hiện tốt vai trò là nòng cốt trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
2. Tăng cường tiềm lực quốc phòng của Thành phố và sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang Thủ đô
Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, vai trò quản lý Nhà nước của chính quyền, sự phối hợp của MTTQ và tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội các cấp đối với công tác quốc phòng và xây dựng lực lượng vũ trang Thủ đô. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình, kế hoạch của Thành ủy thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) “Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; xây dựng khu vực phòng thủ Thành phố đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Kết hợp giáo dục quốc phòng và an ninh với giáo dục pháp luật, giáo dục truyền thống, lịch sử văn hiến - anh hùng của Thủ đô; thực hiện có nền nếp, chất lượng công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng và học sinh, sinh viên, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, góp phần làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ” và các thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng trong xây dựng, thực hiện các quy hoạch, dự án của các cấp, các ngành, các lĩnh vực v.v…
Thực hiện tốt việc đăng ký, quản lý công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự, dân quân tự vệ, quân nhân dự bị và phương tiện kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân. Xây dựng các đơn vị bộ đội chủ lực, địa phương theo hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Bảo đảm trang bị hiện đại cho một số đơn vị đặc nhiệm phòng, chống khủng bố, cứu hộ, cứu nạn. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ “vững mạnh, rộng khắp”, hoạt động hiệu quả, thiết thực, phát huy được vai trò nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quân sự - quốc phòng, góp phần giữ vững an ninh, trật tự ở cơ sở. Hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch về xây dựng, huy động quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật để kiểm tra, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ hằng năm. Làm tốt công tác đón tiếp, đăng ký và giải quyết việc làm cho quân nhân xuất ngũ trở về địa phương. Cơ bản hoàn thành xây dựng, nâng cấp sở chỉ huy các cấp, trường quân sự, trung tâm giáo dục quốc phòng - an ninh, thao trường, bãi tập cho các đơn vị bộ đội và dân quân tự vệ. Tiếp tục xây dựng công trình phòng thủ của Thành phố và các quận, huyện, thị xã. Làm tốt công tác động viên công nghiệp và phòng thủ dân sự. Coi trọng xây dựng, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quân sự và cơ quan quân sự các cấp để thực hiện tốt chức năng tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quản lý, chỉ huy các đơn vị thuộc quyền. Xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện, khả năng sẵn sàng chiến đấu, trình độ chính quy ngày càng cao, vững vàng về chính trị, nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Thủ đô, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
XI. MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP, HỢP TÁC PHÁT TRIỂN, NÂNG CAO VỊ THẾ THỦ ĐÔ
1. Hợp tác phát triển trong nước
Chủ động phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành Trung ương, nhất là trong những vấn đề liên quan đến cơ chế, chính sách đặc thù và triển khai các chủ trương, chính sách trên địa bàn Thành phố. Tăng cường liên kết, hợp tác với các tỉnh, thành phố trong vùng và cả nước trên tinh thần hiệu quả, cùng có lợi, tăng cường sự hiểu biết, trao đổi kinh nghiệm phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền và tìm kiếm cơ hội hợp tác, đầu tư, hỗ trợ nhau cùng phát triển.
2. Đối ngoại, hội nhập và hợp tác quốc tế
Tổ chức tốt các hoạt động ngoại giao, hợp tác quốc tế của Thủ đô. Củng cố quan hệ đã thiết lập, tích cực mở rộng hợp tác với các thủ đô, thành phố tiềm năng; chú trọng các hoạt động hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, xúc tiến đầu tư, thương mại, quảng bá du lịch, nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu hút đầu tư nước ngoài và tài trợ quốc tế. Nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của kinh tế Thủ đô, tăng cường hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại. Tăng cường hội nhập kinh tế, văn hóa trong khu vực và trên thế giới với tư cách là Thủ đô thành viên cộng đồng ASEAN; đẩy mạnh công tác đối ngoại nhân dân, tăng cường tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu về Thủ đô với bạn bè quốc tế.
XII. NÂNG CAO HIỆU LỰC QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH CỦA HỆ THỐNG CHÍNH QUYỀN, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA MTTQ VÀ CÁC ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI, PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN THỦ ĐÔ
1. Nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành của hệ thống chính quyền các cấp
 Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND các cấp. Tập trung chỉ đạo chuẩn bị để tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021. Thực hiện tốt các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, hoạt động của HĐND; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong tham gia xây dựng và giám sát hoạt động của hệ thống chính quyền các cấp. Củng cố, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động các cơ quan thường trực của HĐND, nâng cao năng lực, trách nhiệm của các đại biểu và tăng cường đại biểu chuyên trách HĐND; chủ động chuẩn bị tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để giới thiệu bầu làm đại biểu HĐND các cấp. Tăng cường công tác thông tin, chủ động phối hợp chặt chẽ giữa HĐND với các cấp, các ngành và các cơ quan liên quan để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo luật định. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các kỳ họp, các nghị quyết HĐND, hoạt động giám sát, tiếp xúc cử tri và chất lượng công tác tiếp dân, đôn đốc, giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.
Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành của UBND và cơ quan hành chính các cấp. Kiện toàn tổ chức, bộ máy, nâng cao trình độ, phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá, rút kinh nghiệm trong chỉ đạo thực hiện, quy định rõ trách nhiệm của từng địa phương, đơn vị và của người đứng đầu cơ quan hành chính. Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng CNTT, xây dựng chính quyền điện tử. Hoàn thiện cơ chế để nhân dân tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính các cấp.
  Phân cấp mạnh quản lý kinh tế - xã hội, gắn với phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi; chú trọng hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và thực hiện tốt các biện pháp bảo đảm quản lý thống nhất sau phân công, phân cấp, ủy quyền. Tập trung nghiên cứu, tổng kết thực tiễn quản lý trên địa bàn để điều chỉnh, bổ sung quy định về phân cấp quản lý kinh tế - xã hội gắn với phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi theo quy định của Luật, xác định rõ hơn nhiệm vụ quản lý của mỗi cấp, mỗi ngành và vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu. 
Tiếp tục đẩy mạnh CCHC, trọng tâm là cải cách TTHC, công khai, minh bạch các TTHC, các chuẩn mực, quy định hành chính để nhân dân giám sát. Hà Nội phấn đấu đi đầu cả nước trong thực hiện các mục tiêu chương trình tổng thể CCHC Nhà nước giai đoạn 2011 - 2020. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách để thực hiện hiệu quả Luật Thủ đô và các quy định về xã hội hóa, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng dịch vụ công, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, đầu tư, xây dựng và thuế, phù hợp với quy định của pháp luật. Thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông theo hướng văn minh, hiện đại. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT, rút ngắn quy trình, nâng cao chất lượng giải quyết công việc của các cơ quan hành chính nhà nước đối với tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp trên địa bàn.
Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ công chức; đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, phân loại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức bảo đảm có số lượng, cơ cấu hợp lý, có đủ trình độ, phẩm chất và năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ; thu hút đội ngũ chuyên gia giỏi, tài năng trẻ, nguồn nhân lực chất lượng cao làm việc tại các cơ quan của Thành phố. Tăng cường kiểm tra, nâng cao kỷ luật, kỷ cương hành chính, văn hóa công vụ, quy tắc ứng xử của công chức, viên chức; hoàn chỉnh chế tài xử lý vi phạm trong thực thi nhiệm vụ.
2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của MTTQ và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân và quyền làm chủ của nhân dân Thủ đô  
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng hoạt động của MTTQ và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp, bám sát thực tiễn, hướng mạnh về cơ sở, phát huy vai trò, trách nhiệm của đoàn viên, hội viên, phù hợp yêu cầu nhiệm vụ của từng tổ chức, từng đối tượng vận động, từng giai đoạn cụ thể, bảo đảm lợi ích thiết thực giữa cá nhân, cộng đồng và xã hội. 
Nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân; kịp thời sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện, nhằm cổ vũ, động viên, nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến và khắc phục hạn chế, khuyết điểm; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo tổ chức chính trị - xã hội các cấp có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực, trách nhiệm, tâm huyết với công việc, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới.
Đổi mới phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc, nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ công tác vận động quần chúng của cán bộ MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội, bảo đảm bám sát địa bàn, cơ sở, sát dân, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động nhân dân và đề xuất cấp ủy chỉ đạo giải quyết kịp thời những khó khăn, bức xúc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Thực hiện tốt các hoạt động giám sát và phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền các cấp; chủ động đề xuất, góp ý kiến với Đảng, Nhà nước và Thành phố trong việc ban hành chủ trương, nghị quyết, các cơ chế, chính sách, phát huy tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và của các tầng lớp nhân dân Thủ đô.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân và quyền làm chủ của nhân dân Thủ đô: Tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, quan hệ hợp tác, hữu nghị với các tổ chức, cá nhân trong nước, quốc tế, người Việt Nam ở nước ngoài; thông qua các cuộc vận động và các phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát huy dân chủ, tạo sự đồng thuận xã hội. MTTQ và các tổ chức thành viên phải thực hiện tốt vai trò chủ động, sáng tạo, phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành đẩy mạnh chủ trương dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân nâng cao cảnh giác, chủ động đấu tranh với mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, chia rẽ nội bộ nhân dân, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo, đoàn kết quốc tế. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
XIII. ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG; THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ
1. Nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước về công tác phòng, chống tham nhũng. Gắn công tác phòng, chống tham nhũng với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và việc học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, địa phương, đơn vị. Có cơ chế bảo vệ, kịp thời biểu dương, tôn vinh những người tích cực, dũng cảm đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
 Tập trung đẩy mạnh CCHC, tăng cường kiểm tra, thanh tra công vụ; đổi mới công tác tuyển dụng, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ bảo đảm công khai, dân chủ; rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách để tăng cường hiệu quả quản lý trong các lĩnh vực tài chính, đầu tư, quy hoạch, đất đai, tài nguyên, đầu tư công, mua sắm tài sản công, v.v... Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị và công tác phối hợp giữa các cơ quan phòng, chống tham nhũng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm nghiêm minh, kịp thời. Phát huy tốt vai trò của HĐND, MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong việc giám sát đối với đảng viên, cán bộ, công chức và hoạt động của các tổ chức, cơ quan nhà nước.
2. Đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Đẩy mạnh tuyên truyền, triển khai thực hiện nghiêm các quy định về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí: Chỉ thị số 27 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Chỉ thị số 30 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Chỉ thị số 11 của Thành ủy (khóa XV) về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới trên địa bàn Thành phố.
Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách và các quy định của Thành phố về định mức, tiêu chuẩn, chế độ, làm cơ sở để thực hiện tiết kiệm. Thực hiện tốt việc công khai, minh bạch về tài chính, ngân sách, quản lý tài sản công, đầu tư, dự án, các lĩnh vực thuế, hải quan, giáo dục, y tế, v.v... Nêu cao vai trò gương mẫu của cấp ủy đảng, chính quyền, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đặc biệt là người đứng đầu về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nhất là trong thực hiện các quy định của pháp luật về đầu tư công, mua sắm công, quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; kiên quyết dừng các dự án kéo dài, không hiệu quả.
XIV. TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG, XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ THỰC SỰ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH
1. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), nhằm xây dựng Đảng bộ thực sự trong sạch, vững mạnh
Tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp cơ bản để giải quyết tốt ba vấn đề cấp bách về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng của Đảng bộ:
- Thường xuyên thực hiện tốt các giải pháp kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình, gắn với thực hiện có hiệu quả kế hoạch sửa chữa, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, xử lý nghiêm vi phạm. 
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp thực sự trong sạch, vững mạnh. Nêu cao vai trò, trách nhiệm của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên trong công tác quán triệt, chỉ đạo tổ chức thực hiện các chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương và Thành ủy, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong thời kỳ mới. Đề cao trách nhiệm cá nhân, tinh thần phục vụ nhân dân. Lấy tiêu chuẩn hoàn thành nhiệm vụ được giao làm thước đo đánh giá cán bộ.
- Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, phải xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên trong toàn Đảng bộ.
2. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chính trị tư tưởng; thực hiện tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả của công tác tư tưởng; đổi mới việc học tập, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, theo hướng gắn với xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, thiết thực để triển khai thực hiện nghị quyết của mỗi cấp ủy, địa phương, đơn vị. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị, tổng kết thực tiễn và hiệu quả công tác tuyên truyền, bảo đảm thống nhất về tư tưởng và hành động, tạo sự đồng thuận cao trong toàn Đảng bộ và xã hội. Tăng cường chỉ đạo, quản lý hoạt động báo chí, xuất bản, truyền thông, phát thanh, truyền hình, văn hóa, văn nghệ của Thủ đô theo định hướng của Đảng, quy định của Nhà nước và của Thành ủy. Kịp thời nắm bắt, dự báo, định hướng tư tưởng, hướng dẫn dư luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân Thủ đô.
Tập trung chỉ đạo tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, gắn với đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, trọng tâm là: Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm. Chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, phản động. 
3. Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, thực hiện có hiệu quả chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới 
Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội XVI Đảng bộ Thành phố về công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là tiếp tục đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, thực hiện có hiệu quả chiến lược cán bộ của Thành phố trong thời kỳ mới.
Đổi mới, hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị từ Thành phố đến cơ sởChỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp, nhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt và chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức chi bộ, đặc biệt là chi bộ thôn, tổ dân phố, chi bộ trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước. Củng cố, kiện toàn, sắp xếp lại tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức đảng trong các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước sau khi được sắp xếp lại và doanh nghiệp cổ phần hóa.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên. Tăng cường kiểm tra, đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên bảo đảm đúng thực chất; xây dựng, thực hiện tốt cơ chế quản lý, phân công nhiệm vụ và đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của đảng viên; chăm lo bồi dưỡng, tạo nguồn phát triển đảng viên mới.
Thực hiện nghiêm túc các quy định, hướng dẫn của Trung ương về công tác cán bộ, quản lý đội ngũ cán bộ và chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới. Tiến hành thí điểm tuyển chọn một số chức danh lãnh đạo cấp sở, ban, ngành Thành phố; sửa đổi, bổ sung một số quy định về phân cấp, bố trí, sử dụng, tiêu chuẩn chức danh cán bộ. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả kế hoạch đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển cán bộ, nhất là các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp nhiệm kỳ 2015 - 2020, chủ động chuẩn bị tốt nhân sự HĐND, UBND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo. Thực hiện tốt chính sách cán bộ và công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ Đảng.
4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, quán triệt và chỉ đạo thực hiện nghiêm các quy định của Đảng và của Thành ủy về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật trong Đảng đối với cấp ủy, UBKT các cấp và cán bộ, đảng viên.
Tăng cường chỉ đạo kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chương trình, kế hoạch, đề án công tác lớn của Thành ủy và nhiệm vụ chính trị của cấp ủy địa phương, đơn vị trên các lĩnh vực chủ yếu, như: quản lý đất đai, quy hoạch đô thị, trật tự xây dựng, các dự án đầu tư xây dựng, công tác cán bộ, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết nội bộ, việc rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống, thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên. Phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của Thành phố.
Thực hiện tốt công tác nắm tình hình, giám sát thường xuyên, giám sát chuyên đề, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nội chính để kịp thời phát hiện, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là cấp ủy viên và người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp của Thành phố.
5. Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động công tác dân vận
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng công tác dân vận, theo hướng tăng cường đối thoại, vận động, thuyết phục. Thực hiện tốt công tác tôn giáo, công tác dân tộc. Nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị các cấp và các tầng lớp nhân dân Thủ đô về vị trí, vai trò công tác dân vận trong tình hình mới.
Phát hiện sớm, tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những vấn đề nổi cộm, bức xúc của nhân dân; đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các cuộc vận động và phong trào thi đua yêu nước; củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống tổ chức dân vận từ Thành phố đến cơ sở; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị; thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội.
6. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nội chính
Đẩy mạnh chương trình cải cách tư pháp theo hướng nâng cao chất lượng các hoạt động tố tụng, thi hành án, không để xảy ra việc kết án oan, sai hoặc để lọt tội phạm.
Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tư pháp, nhằm tăng hiệu quả công tác nội chính của Thủ đô. Tập trung nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy và năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của ngành nội chính, đặc biệt là các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng của Thành phố.
7. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng 
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đối với chính quyền, MTTQ và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội các cấp, gắn với lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và các lĩnh vực khác. Phát huy vai trò, hiệu lực, hiệu quả của cơ quan chính quyền, MTTQ và tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội các cấp, xây dựng hệ thống chính trị từ Thành phố tới cơ sở vững mạnh, hoạt động có hiệu quả.
Quy định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của cấp ủy và mối quan hệ với hệ thống chính quyền, đoàn thể các cấp; đẩy mạnh việc phân cấp cho cơ sở, có cơ chế, chính sách để các cấp ủy, chính quyền địa phương, đơn vị phát huy quyền chủ động, sáng tạo, đề cao trách nhiệm, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, quản lý thống nhất của Thành phố.
Đổi mới phương pháp công tác, lề lối làm việc của cấp ủy và hệ thống chính trị các cấp, thực hiện phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, kỷ cương, gần dân, vì dân, lắng nghe ý kiến phản biện, kiến nghị của nhân dân, bám sát thực tiễn cơ sở, thực hiện nói đi đôi với làm.
 Tiếp tục đổi mới việc ban hành, nâng cao chất lượng các chỉ thị, nghị quyết, chương trình, kế hoạch, đề án công tác của cấp ủy và chính quyền các cấp bảo đảm thiết thực, ngắn gọn, khả thi, có lộ trình, bước đi phù hợp, phân công rõ trách nhiệm chỉ đạo, thực hiện của tổ chức, cá nhân. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh CCHC trong Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của cấp ủy các cấp; kiên quyết chống bệnh quan liêu, giấy tờ, giảm hội họp, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
PHẦN THỨ BA
CHỈ ĐẠO TỔ CHỨC THỰC HIỆN
 I. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU, QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT 
Sau Đại hội, các cấp ủy đảng khẩn trương tổ chức phổ biến, quán triệt sâu rộng Nghị quyết Đại hội đến cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân Thủ đô:
1. Tổ chức học tập Nghị quyết Đại hội trong cán bộ chủ chốt; chỉ đạo hệ thống tuyên giáo biên soạn kế hoạch, đề cương tuyên truyền, thông qua các kênh thông tin, phổ biến nội dung Nghị quyết đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. 
2. Công tác quán triệt, triển khai Nghị quyết Đại hội XVI phải được gắn với tiếp tục thực hiện đồng bộ, có hiệu quả Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội, giai đoạn 2011-2020”, Luật Thủ đô và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
II. XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH, KẾ HOẠCH, ĐỀ ÁN ĐỂ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 
1. Căn cứ phương hướng, mục tiêu tổng quát, 5 nhiệm vụ chủ yếu, 3 khâu đột phá của Nghị quyết XVI Đảng bộ Thành phố và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; giai đoạn 2015 - 2020, Thành ủy dự kiến xây dựng một số chương trình công tác lớn, cụ thể, trên các lĩnh vực chủ yếu sau: Phát triển kinh tế (nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của kinh tế Thủ đô; phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân; v.v...); quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị; phát triển văn hóa - xã hội; bảo đảm an ninh, quốc phòng, đối ngoại; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
2. Các cấp ủy và tổ chức đảng trực thuộc Thành ủy, căn cứ Nghị quyết Đại hội XVI Đảng bộ Thành phố, chương trình công tác của Thành ủy, Nghị quyết Đại hội cấp mình nghiên cứu vận dụng, cụ thể hóa xây dựng các chương trình, kế hoạch, đề án công tác, có lộ trình thực hiện phù hợp với tình hình thực tiễn và nhiệm vụ chính trị của cấp ủy địa phương, đơn vị.
3. Đảng Đoàn, Ban cán sự Đảng, Đảng ủy cơ quan chính quyền, MTTQ và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp của Thành phố cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội, chương trình công tác lớn của Thành ủy bằng các chương trình, kế hoạch công tác phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Từng chương trình, kế hoạch phải đề ra nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, đồng bộ, phù hợp với thực tế; phân công rõ tập thể và cá nhân chịu trách nhiệm thực hiện, định rõ thời gian hoàn thành, đồng thời phổ biến để nhân dân biết, giám sát.
III. PHÂN CÔNG TRÁCH NHIỆM TỔ CHỨC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 
1. Các cấp, các ngành, từng địa phương, đơn vị phải tập trung tổ chức chỉ đạo thực hiện Nghị quyết với tinh thần quyết liệt, hiệu quả ngay sau Đại hội.
2. Công tác chỉ đạo phải bám sát Nghị quyết, các chương trình, đề án. Định kỳ rà soát, sơ kết để bổ sung, hoàn thiện các chương trình, kế hoạch, đề án phù hợp với tình hình thực tiễn.
3. Thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá, rút kinh nghiệm công tác, tổ chức thực hiện Nghị quyết và các chương trình, đề án đã ban hành theo định kỳ và tổng kết thực hiện các chương trình, đề án công tác lớn của Thành ủy vào cuối nhiệm kỳ.        
 ([1]) GRDP tính theo cách cũ; GDP cả nước dự kiến tăng 5,82%
([2]) Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; thông tin và truyền thông chiếm 15% GRDP, tăng trung bình 12,3%
([3]) Du lịch chiếm 3,2% GRDP, tăng hàng năm 11%
([4]) Chiếm trên 14% GTSX công nghiệp chế biến, chế tạo, tăng trung bình trên 20%/năm; đóng góp trên 20% kim ngạch xuất khẩu với kim ngạch tăng trên 5%/năm
([5]) Tạo ra khoảng 40% giá trị sản xuất công nghiệp, 45% kim ngạch xuất khẩu
([6]) Thành phố hiện có 1.350 làng nghề và làng có nghề, chiếm gần 59% tổng số làng trên địa bàn (47/52 nghề của toàn quốc). 
([7]) Năm 2010, trồng trọt chiếm 43,0%, chăn nuôi chiếm 47,0%; năm 2014 tương ứng giảm còn 40,4% và 46,4%; dịch vụ tăng từ 3,5% lên 4,7% và thủy sản từ 6,2% lên 8,3%.
([8]) Phát triển ổn định 69 xã chăn nuôi trọng điểm, hình thành 24 khu chăn nuôi tập trung, quy mô lớn ngoài khu dân cư; 5000 ha rau an toàn tập trung được quản lý; duy trì ổn định 34 vùng sản xuất lúa hàng hóa với tổng diện tích 25.000 ha, trong đó có gần 6.000 ha lúa chất lượng cao.
([9])  Tại các huyện Mê Linh, Hoài Đức, Đan Phượng, Đông Anh...   
([10]) 92 dự án đầu tư lĩnh vực GD ngoài công lập, quy mô đăng ký trên 13.200 tỷ đồng; 18 BV đã hoàn thành đi vào hoạt động, 25 dự án đầu tư BV ngoài công lập đang triển khai, thu hút 266 tỷ đồng thực hiện 41 đề án XHH tại các cơ sở y tế công lập.
([11]) 4 năm 2011-2014 huy động 23.105 tỷ, trong đó 23,6 % huy động ngoài ngân sách
([12]) Khu vực thành thị: 60 triệu đồng
([13]) Ứng dụng kỹ thuật cao trong mổ nội soi tiêu hoá, phẫu thuật chấn thương sọ não, nối mạch máu, can thiệp tim mạch, ghép tạng, thụ tinh trong ống nghiệm, sàng lọc sơ sinh, sàng lọc trước sinh, xạ trị và nút mạch siêu chọn lọc trong ung thư gan. Triển khai phẫu thuật nội soi ở các bệnh viện tuyến huyện và thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ về luân phiên có nghĩa vụ đối với cán bộ y tế.
([14]) 100% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế; tỷ lệ bác sỹ/1 vạn dân tăng lên 11,5; số giường bệnh/1 vạn dân tăng lên 21,3.
([15]) Hà Nội luôn đóng góp khoảng 30% tổng số HLV, VĐV và thành tích của các đoàn VĐV Việt Nam tham dự Đại hội TT thế giới và khu vực.
([16]) Số hộ nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế ước đạt 245.842 hộ, hỗ trợ học nghề ước đạt 12.718 hộ, hỗ trợ xây dựng và sửa chữa nhà ở 4.755 hộ. Hàng năm thực hiện trợ cấp thường xuyên cho 300.452 người. Cơ bản hộ nghèo không còn nhà dột nát, xuống cấp.
([17]) Đã có 85% gia đình được công nhận và giữ vững danh hiệu Gia đình văn hoá, 55% làng được công nhận và giữ vững danh hiệu Làng văn hoá, 70% tổ dân phố được công nhận và giữ vững danh hiệu Tổ dân phố văn hoá
([18]) Năm 2011, Hà Nội được Tạp chí Travel and Leisure bình chọn là một trong 5 TP du lịch tốt nhất Châu Á; tạp chí Smart Travel Asia bình chọn là điểm du lịch, nghỉ ngơi tốt thứ 6 Châu Á. Năm 2012, trang tin Arapbian Business bình chọn Hà Nội là một trong 25 điểm đến hấp dẫn nhất thế giới; Báo cáo của tổ chức TripAdvisor: Hà Nội là điểm du lịch rẻ nhất thế giới. Năm 2013, lọt vào Top 10 điểm đến hấp dẫn hàng đầu Châu Á do độc giả tạp chí Smart Travel Asia bình chọn. Năm 2014, được tổ chức TripAdvisor bình chọn đứng thứ 8 trong 10 TP thu hút khách du lịch hàng đầu thế giới; xếp thứ 2 trong danh sách 25 điểm đến hấp dẫn các du khách nhất.
([19]) Thành phố đã tổ chức nhiều đoàn cán bộ lãnh đạo đi thăm, làm việc, mở rộng hợp tác đầu tư và trực tiếp hỗ trợ nhiều tỉnh, thành phố vùng Việt Bắc, Tây Bắc, khu vực miền Trung, Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ...
([20]) Toàn Đảng bộ kết nạp 64.998 đảng viên; bình quân kết nạp gần 13.000/năm. 
([21]) Thành ủy ban hành Chương trình số 09-CTr/TU về đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Từ 2011-2014, có 102 vụ việc tham nhũng bị truy tố với 274 bị can.
([22]04 chỉ tiêu vượt kế hoạch là: số xã đạt chuẩn NTM; số giường bệnh; số bác sỹ/vạn dân; tỷ lệ thu gom và xử lý rác thải ngoại thành.
([23]) 04 chỉ tiêu không đạt kế hoạch là: Tăng trưởng GRDP; GRDP bình quân đầu người; tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu; tỷ lệ vận chuyển hành khách công cộng.
([24]Thành ủy đã có Báo cáo đánh giá tổng kết 30 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới ở Thủ đô Hà Nội (1986 - 2016), gồm 3 chuyên đề lớn, về: Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam trên địa bàn Thủ đô; công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ thành phố Hà Nội.
([25]) Hà Nội được tổ chức UNESCO công nhận ba Di sản văn hóa thế giới là: Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long, “Lễ hội Gióng ở Đền Sóc và Đền Phù Đổng” và nghệ thuật “Hát ca trù”; 82 Bia Tiến sỹ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám được công nhận là Di sản tư liệu thế giới.
([26]) Theo cách tính mới: Bình quân 2011-2015: Tăng trương GRDP đạt 7,31 %, trong đó: Dịch vụ 6,96%, CN-XD 8,45%, Nông nghiệp 3,66 %; cả nước: GDP giai đoạn 2011-2015 tăng bình quân 5,82% dự kiến 2016-2020 tăng 6,5-7,5 %.
([27]) Cơ cấu giai đoạn 2011-2015 theo cách tính mới: Dịch vụ - CNXD-NN là 60,2 - 36,4% - 3,4%
([28]) Là hình thức dịch vụ về kho bãi, vận chuyển hàng hóa và các dịch vụ hỗ trợ kèm theo.
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Các tin tức khác
Danh mục tin tức liên quan
Kết quả bình chọn Hàng Việt Nam được người tiêu dùng yêu thích 2020