Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giải quyết các vấn đề xã hội

02/08/2023 - 04:47 PM

Vấn đề xã hội là một hiện tượng xã hội gây nên những xung đột hoặc mất cân bằng trong các quan hệ xã hội giữa con người với con người, con người với xã hội và con người với tự nhiên. Trong quá trình phát triển, đất nước ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có các vấn đề xã hội. Giải quyết vấn đề xã hội luôn là mục tiêu xuyên suốt, quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta với quan điểm lấy con người là trung tâm. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bao trùm và bền vững.

Một số nhận thức cơ bản về vấn đề xã hội

Vấn đề xã hội là hệ quả của quá trình phát triển và biến đổi xã hội. Trong quá trình phát triển và chuyển biến xã hội tất yếu xuất hiện sự mất cân đối trong chức năng, kết cấu và mất cân bằng của một số bộ phận và thành tố xã hội. Nói cách khác, một vài chức năng nào đó trong hệ thống xã hội bị suy giảm, bị triệt tiêu hay bị chuyển hóa thường gây nên mất cân bằng trong kết cấu xã hội; mất đi sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ phận, thành tố trong hệ thống xã hội, từ đó làm nảy sinh các vấn đề xã hội1.

Chúng ta đều biết mọi sự vật, hiện tượng đều có tính hai mặt. Vấn đề xã hội cũng vậy, tức là vừa có tính tích cực, vừa có tính tiêu cực.

Trong quá trình phát triển xã hội ở một trình độ nhất định và một thời gian nhất định, xuất hiện sự “mất cân đối tạm thời” trong hệ thống xã hội từ thể chế và kết cấu của nó, nhưng sự mất cân đối tạm thời này là điều kiện để xã hội tự điều chỉnh và hoàn thiện. Quá trình này là cho hệ thống xã hội hoàn thiện hơn, tạo điều kiện cho sự phát triển xã hội. Đó chính là mặt tích cực của vấn đề xã hội. Nhưng nếu để vấn đề xã hội trở nên nghiêm trọng có tác động tiêu cực và cản trở sự phát triển bình thường của xã hội, thậm chí gây nên những rối loạn, bất ổn xã hội. Trên thực tế, khi nói đến vấn đề xã hội, người ta thường xem xét đến mặt tiêu cực của nó để có giải pháp khống chế và kiểm soát vấn đề xã hội.

Các nhà khoa học đều đánh giá vấn đề xã hội có tính chất phức tạp. Ở phạm vi rộng, vấn đề xã hội được hiểu là toàn bộ những vấn đề liên quan đến đời sống xã hội, có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến các khía cạnh của đời sống xã hội và được con người quan tâm. Ở phạm vi hẹp, vấn đề xã hội được hiểu là sự mất cân đối và trạng thái không bình thường, khuyết tật của xã hội, tức là trong quá trình vận hành xã hội, vì một hay nhiều lý do nào đó mà phát sinh những nhân tố gây nên những trở ngại hay làm mất cân bằng trong kết cấu xã hội, môi trường xã hội, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của một bộ phận hay toàn xã hội; tác động đến trật tự vốn có của xã hội.

Vấn đề xã hội là tất cả những gì liên quan đến con người, các nhóm người, các cộng đồng người, đến sự tồn tại và phát triển của con người trong một hoàn cảnh xã hội nhất định, đụng chạm đến lợi ích của một cộng đồng. Vấn đề xã hội không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của các thành viên trong xã hội, mà còn là một trong những nhân tố gây nên những trở ngại, tác động và đe dọa đến sự phát triển hài hòa của xã hội.

Theo TS. Phạm Di, vấn đề xã hội là một hiện tượng xã hội gây nên những xung đột hoặc mất cân bằng trong các quan hệ xã hội giữa con người với con người, con người với xã hội và con người với tự nhiên. Vấn đề xã hội là sản phẩm của con người có ảnh hưởng đến một nhóm người, cộng đồng người nhất định và chỉ có thể khắc phục thông qua hành động xã hội.

Theo quy luật, trong quá trình vận hành và phát triển của bất kỳ một xã hội nào, tất yếu sẽ nảy sinh bên trong xã hội ấy những hiện tượng mất cân bằng nào đó. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học, không phải tất cả mọi hiện tượng mất cân bằng xã hội đều là vấn đề xã hội, mà phải có những điều kiện nhất định kèm theo. Cụ thể:

Thứ nhất, nguồn gốc vấn đề phải có tính xã hội. Tính xã hội được hiểu là vấn đề xã hội thuộc về lĩnh vực chung, công cộng, mang tính công chúng, là vấn đề của đại đa số các thành viên trong xã hội. Vì vậy, giải quyết vấn đề xã hội phải thông qua xã hội, bằng sức mạnh xã hội.

Thứ hai, nội dung và hình thức biểu hiện phải có tính xã hội. Điều kiện này được hiểu là vấn đề xã hội không phải là hiện tượng mất cân bằng xã hội mang tính cá biệt, mà là hành vi và quan niệm của đại đa số thành viên trong cộng đồng xã hội, tác động đến đại đa số thành viên trong cộng đồng xã hội ở nhiều lĩnh vực và trên nhiều chiều, khía cạnh khác nhau.

Thứ ba, hệ quả vấn đề mang tính xã hội. Điều kiện này được hiểu là vấn đề xã hội tác động đến cơ cấu xã hội trong các nhóm xã hội, các bộ phận xã hội và các tầng lớp xã hội khác nhau. Đồng thời, vấn đề xã hội tác động trong suốt quá trình xã hội hóa của con người, tác động đến quá trình hoạt động và biến đổi của tổ chức, thể chế và văn hóa xã hội.

Thứ tư, trách nhiệm giải quyết mang tính xã hội. Điều đó có nghĩa là, trách nhiệm giải quyết các vấn đề xã hội không thể do một cá nhân hay một số ít người nào đó, mà là do toàn xã hội cùng nhận thức và giải quyết.

Thứ năm, phương thức giải quyết mang tính xã hội. Điều đó có nghĩa là giải quyết vấn đề xã hội chỉ có thể thông qua sức mạnh cộng đồng, sức mạnh xã hội mới có thể thành công.

Một số vấn đề xã hội chủ yếu ở Việt Nam hiện nay

Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đây là cuộc cách mạng với những biến đổi sâu sắc trong đời sống xã hội. Đất nước ta đứng trước cơ hội to lớn bởi thế và lực đã lớn mạnh hơn nhiều cả về quy mô và sức mạnh của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong giai đoạn tới, đất nước ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có các vấn đề xã hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Các vấn đề xã hội gây áp lực lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, như già hóa dân số, chênh lệch giàu - nghèo và trình độ phát triển. Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn ngày càng nhanh với cường độ mạnh, khó lường, đặc biệt là ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch Covid-19 có thể kéo dài đến những năm đầu của kế hoạch 5 năm 2021 - 2025.

Những thách thức về khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững nguồn nước, tài nguyên, đất đai và xử lý ô nhiễm môi trường sẽ tác động nặng nề đến phát triển kinh tế, xã hội”2. Từ quan điểm của Đảng, các nhà khoa học đã khái quát một số vấn đề xã hội chủ yếu ở Việt Nam hiện nay như sau: 1) Vấn đề dân số; 2) Vấn đề lao động, việc làm và thu nhập; 3) Vấn đề đói nghèo; 4) Vấn đề tội phạm; 5) Vấn đề ô nhiễm môi trường; 6) Vấn đề nhóm yếu thế.

Vấn đề dân số: Dân số hiện tại của Việt Nam là 99.332.076 người vào ngày 2/1/2023 theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp Quốc3.

Việt Nam là quốc gia đông dân thứ 15 trên thế giới, và đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia và Philippines). Việt Nam trải qua những giai đoạn biến động dân số lớn, nhất là giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1985, tỷ suất sinh ở Việt Nam luôn trong mức từ 4,6 đến 6,45. Từ sau năm 2000, mức sinh tại Việt Nam bắt đầu giảm dần về mức sinh thay thế và giữ vững được mức sinh thay thế cho đến nay.

Đối với nước ta hiện nay, vấn đề chênh lệch mức sinh giữa các vùng miền, khu vực; mất cân bằng giới tính khi sinh và già hóa dân số là những thách thức lớn nhất đối với công tác quản lý phát triển xã hội. Dân số luôn được xác định là một lĩnh vực quan trọng vừa là mục tiêu, vừa là chiến lược, vừa cấp thiết, vừa lâu dài.

Quản lý phát triển xã hội trong lĩnh vực dân số đang được coi là một trong những trọng tâm để giải quyết các vấn đề xã hội và nhưng thách thức trong lĩnh vực dân số hướng đến phát triển bền vững. Việc tận dụng tối đa tiềm năng dân số cũng như hạn chế, ứng phó với những tác động không thuận lợi của biến động nhân khẩu học là điều rất quan trọng trong xây dựng chính sách và chiến lược phát triển đất nước.

Việt Nam đang trong giai đoạn biến đổi mạnh cả về quy mô, cơ cấu dân số, đặc biệt là quá trình già hoá dân số đang diễn ra nhanh chóng, vì vậy, dân số luôn là vấn đề trọng tâm bởi nó tác động lớn đến các mục tiêu phát triển xã hội bền vững.

Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề dân số. Ngày 22/11/2019, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030, triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới. Mục tiêu chính là nỗ lực chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang thực hiện và đạt được các mục tiêu toàn diện cả về quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh.

Vấn đề lao động, việc làm và thu nhập: Theo Thống kê tình hình lao động, việc làm năm 2022 cho thấy: Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đạt 51,7 triệu người, cao hơn 1,1 triệu người so với năm trước. Lực lượng lao động ở khu vực thành thị là 19,1 triệu người, chiếm 37,1 điểm phần trăm; lực lượng lao động nữ đạt 24,2 triệu người, chiếm 46,8% lực lượng lao động của cả nước. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động năm 2022 là 68,5%, tăng 0,8 điểm phần trăm so với năm trước;

Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm năm 2022 là 50,6 triệu người, tăng 1,5 triệu người so với năm 2021, tuy nhiên vẫn thấp hơn năm 2019 là 56,8 nghìn người. Trong đó, số lao động có việc làm ở khu vực thành thị là 18,6 triệu người (tăng 877,3 nghìn người so với năm trước), lao động ở khu vực nông thôn là 31,9 triệu người (tăng 627,2 nghìn người so với năm trước);

Thu nhập bình quân tháng của người lao động năm 2022 là 6,7 triệu đồng, tăng 927 nghìn đồng so với năm trước và tăng 759 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2019. Số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động năm 2022 là gần 1,07 triệu người, giảm 359,2 nghìn người so với năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động năm 2022 là 2,32%, giảm 0,88 điểm phần trăm so với năm trước4.

Số liệu trên cho thấy, trong năm 2022 thị trường lao động Việt Nam vẫn có nhiều điểm sáng, lực lượng lao động, số người có việc làm và thu nhập của người lao động đều tăng lên; tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm và tỷ lệ lao động phi chính thức đều có xu hướng giảm.

Vấn đề đói nghèo: Đói nghèo vẫn đang là vấn đề xã hội bức xúc ở nước ta hiện nay. Xóa đói, giảm nghèo toàn diện, bền vững luôn luôn được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong hơn 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ và cả hệ thống chính trị, công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được nhiều thành tựu quan trọng: Tỷ lệ hộ nghèo là 9,88% năm 2015 (năm đầu kỳ) giảm xuống còn 2,75% năm 2020 (năm cuối kỳ), trong 5 năm giảm bình quân 1,43%/năm, đạt chỉ tiêu Quốc hội giao (giảm bình quân 1-1,5%/năm); năm 2021 giảm xuống còn 2,23%, năm 2022 giảm khoảng 1-1,5% so với năm 2021; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm bình quân 4%/năm; tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 5,65%/năm, vượt chỉ tiêu Quốc hội giao (giảm bình quân 4%/năm)5.

Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chưa bền vững, số hộ thoát nghèo chủ yếu chuyển sang hộ cận nghèo; chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục.

Vấn đề tội phạm: Tình hình an ninh chính trị nội bộ, an ninh kinh tế, an ninh tôn giáo, an ninh các vùng chiến lược tiếp tục được bảo đảm, giữ vững, song vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Các loại tội phạm như: Tội phạm về trật tự xã hội; Tội phạm tham nhũng, kinh tế, buôn lậu; Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông đều diễn biến rất phức tạp. Trong khi đó, sai phạm trong công tác tiếp nhận, phân loại, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố vẫn tồn tại; việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra gắn với công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành quy chế, quy trình công tác đã được chấn chỉnh song vẫn còn hạn chế.

Vấn đề ô nhiễm môi trường: Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, quá trình phát triển đã bộc lộ những bất cập và tạo áp lực lớn đối với môi trường sinh thái. Tình trạng ô nhiễm môi trường tiếp tục diễn biến phức tạp, chất lượng môi trường nhiều nơi suy giảm mạnh, không còn khả năng tiếp nhận chất thải, đặc biệt ở các khu vực tập trung nhiều hoạt động công nghiệp; đa dạng sinh học và chất lượng rừng suy thoái đến mức báo động, nguồn gen bị thất thoát; hạn hán và xâm nhập mặn gia tăng..., gây hậu quả nghiêm trọng, đe dọa an ninh sinh thái.

Vấn đề nhóm yếu thế: Nhóm yếu thế là nhóm đối tượng mà trong những hoàn cảnh giống nhau khi tham gia vào một quan hệ xã hội, quan hệ lao động, quan hệ pháp luật thì nhóm đối tượng này luôn gặp bất lợi hơn so với những nhóm đối tượng khác trong cùng một hoàn cảnh.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định phát triển bao trùm cũng như tăng trưởng bền vững đều lấy phát triển con người làm trung tâm, với mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhóm yếu thế trong xã hội vẫn chưa được quan tâm đầy đủ. Hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã có những bước tiến trong tăng trưởng kinh tế và cải thiện xã hội rộng khắp và bền vững, nhưng một số nhóm vẫn tụt lại phía sau về nhiều khía cạnh, như thu nhập, dịch vụ y tế, giáo dục, nước sạch và vệ sinh... đặc biệt là các nhóm dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, người di cư, và người khuyết tật. Đồng thời, nhiều nhóm người, đặc biệt là các hộ nghèo ở khu vực miền núi và ven biển, thậm chí ở một số khu vực ở đồng bằng, đang ngày càng dễ bị tổn thương hơn bởi các cú sốc do biến đổi khí hậu.

Theo kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019 của Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê cho thấy: Tại thời điểm 1/4/2019, dân số Việt Nam đạt 96,2 triệu người, trong đó 53 dân tộc thiểu số có 14,1 triệu người, chiếm 14,7% tổng dân số cả nước; tỷ lệ nghèo và cận nghèo của các hộ dân tộc thiểu số cao gấp 3,5 lần tỷ lệ nghèo và cận nghèo chung của toàn quốc; 83,5% thôn thuộc các xã vùng dân tộc thiểu số có nhân viên y tế thôn, bản; tỷ lệ điểm trường được xây dựng kiên cố chỉ đạt 54,4% trên tổng số 26,5 nghìn điểm trường, trong đó mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, tình cảm, nhận thức xã hội và thẩm mỹ cho trẻ em nhưng là cấp có tỷ lệ trường và điểm trường kiên cố thấp nhất trong các cấp học; tiếp cận dịch vụ công cộng của đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp khó khăn do khoảng cách từ nhà đến các cơ sở cung cấp dịch vụ còn xa: khoảng cách trung bình từ nhà đến chợ (hoặc trung tâm thương mại) gần nhất năm 2019 là 8,9 km, đến bệnh viện gần nhất năm 2019 là 14,7 km, đến trường tiểu học và trung học cơ sở gần nhất lần lượt là 2,2 km và 3,7 km…6

Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề xã hội

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức lễ phát động ủng hộ xây nhà Đại đoàn kết cho hộ nghèo của tỉnh Điện Biên, tháng 5/2023.

 

Để làm tốt vai trò trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động theo hướng sâu sát với dân, hướng về cơ sở, thật sự thiết thực, hiệu quả.

Coi trọng việc nhân rộng các điển hình tốt, phê phán những việc làm chưa tốt, khắc phục bệnh hình thức. Không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, trước hết là đội ngũ cán bộ hoạt động chuyên trách ở các cấp.

Đồng thời, tăng cường công tác dân vận của chính quyền các cấp; tổng kết và hoàn thiện Quy chế phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước về phong cách dân vận: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”; “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin,” thực sự vì Nhân dân, phục vụ lợi ích của Nhân dân; đồng thời phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động Nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Đối với vấn đề dân số

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp; đổi mới phương thức truyền thông, vận động về dân số; tham gia phản biện để hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dân số; phối hợp các cấp chính quyền phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số; tham gia đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, hoàn thiện hệ thống thông tin, số liệu dân số; quan tâm bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số; kiện toàn tổ chức bộ máy và đào tạo; tăng cường hợp tác quốc tế; vận động toàn xã hội tập trung vào việc thực hiện các mục tiêu:

Duy trì mức sinh thay thế, đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, tận dụng hiệu quả lợi thế cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số, phân bố dân số hợp lý và nâng cao chất lượng dân số; đẩy mạnh việc đa dạng hóa các nguồn đầu tư từ cộng đồng, doanh nghiệp, tư nhân cho công tác dân số; tham gia quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước đầu tư cho công tác dân số; tuyên truyền đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước cho công tác dân số.

Đối với vấn đề lao động, việc làm và thu nhập

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tập trung:

1) Tham gia phản biện hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật đồng bộ, thống nhất để thị trường lao động phát triển theo hướng hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế, giải phóng triệt để sức sản xuất và sức lao động, thúc đẩy tạo việc làm bền vững, có thu nhập cao; Đề xuất các chính sách khuyến khích hình thành và phát triển nhanh thị trường lao động trình độ cao; Hoàn thiện cơ chế đối thoại, thương lượng và thỏa thuận về quan hệ lao động, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động và đình công theo đúng nguyên tắc thị trường và có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước;

2) Tuyên truyền, vận động phát triển, tăng nguồn cung lao động thông qua đổi mới đào tạo, giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở và linh hoạt, chuyển mạnh từ trang bị kiến thức sang phát triển kỹ năng nghề, từng bước đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế cho người lao động, nhất là cho lao động trẻ; phát triển đào tạo, giáo dục nghề nghiệp gắn với nhu cầu của thị trường lao động;

3) Tuyên truyền, vận động phát triển mạng lưới an sinh và bảo hiểm hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế toàn dân. Tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách bảo hiểm xã hội cũng như tính linh hoạt, liên thông của các chính sách cho người lao động khi tham gia thị trường lao động, nhất là lao động trong kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, khu vực phi chính thức, nhằm đạt được mục tiêu mở rộng diện bao phủ;

4) Tuyên truyền, vận động phát triển đồng bộ hệ thống dự báo cung - cầu lao động, cơ sở dữ liệu lớn, thông tin và dịch vụ việc làm của thị trường lao động;

5) Góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, tổ chức, vận hành, hỗ trợ phát triển thị trường lao động của Nhà nước; đổi mới và nâng cao hiệu quả thanh tra thị trường lao động; kịp thời để xử lý những tác động không mong muốn trong hội nhập và tham gia thị trường lao động quốc tế...

Đối với vấn đề đói nghèo

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần thúc đẩy các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và mọi người tiếp tục quan tâm để đưa việc xã hội hóa các hoạt động xóa đói, giảm nghèo lên một tầm cao mới, nhằm tăng cường hơn nữa trách nhiệm của xã hội và của mọi người dân trong việc giải quyết vấn đề nghèo đói ở nước ta.

Thực tiễn cho thấy nguồn lực của Nhà nước vừa có vai trò chủ đạo, vừa mang tính xúc tác, khơi nguồn, nguồn lực của cộng đồng, của quốc tế cũng có vai trò rất quan trọng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần đẩy mạnh các chương trình “Những tấm lòng từ thiện”; “Nối vòng tay lớn”; “Một thế giới trái tim”; “Quỹ Vì người nghèo”; “Nhà Đại đoàn kết”..., để thu hút đông đảo các cá nhân, cộng đồng, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội trong nước và quốc tế tham gia hỗ trợ người nghèo.

Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, “Xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo”, đã giúp cho hàng trăm nghìn hộ nghèo sửa chữa hoặc xây mới được nhà ở. Các mô hình tín dụng - tiết kiệm, nông dân sản xuất giỏi, thanh niên làm kinh tế, đã góp phần cải thiện điều kiện sống cho nhiều thành viên của các tổ chức, các đoàn thể xã hội.

Các hoạt động đối ngoại của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tập trung việc tiếp thu có hiệu quả sự trợ giúp kỹ thuật của bè bạn quốc tế, các bài học kinh nghiệm và mô hình tốt về xóa đói, giảm nghèo như: Phương pháp lập kế hoạch có sự tham gia của người dân, vấn đề giới trong xóa đói, giảm nghèo, cơ chế tăng cường phân cấp cho địa phương, đặc biệt là cấp xã... Những kinh nghiệm và bài học quý báu ấy đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của công cuộc xóa đói, giảm nghèo.

Đối với vấn đề tội phạm

Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần phát huy hơn nữa sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật; tăng cường tham gia phản biện, xây dựng và hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến công tác phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật; sâu sát với dân, hướng về cơ sở để chủ động nắm, phân tích, dự báo sát tình hình từ sớm, từ xa; phối hợp với các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Đồng thời, nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa xã hội, chủ động dự báo sớm và giải quyết các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm và những vấn đề phức tạp về trật tự xã hội ngay từ cơ sở; vận động Nhân dân đấu tranh các loại tội phạm, vi phạm pháp luật, thực hiện có hiệu quả công tác tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm; tích cực tham gia xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Đối với vấn đề ô nhiễm môi trường

1) Tuyên truyền, vận động toàn xã hội thay đổi tư duy bảo vệ môi trường, đổi mới tư duy và hành động trên các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội dựa trên quan điểm tôn trọng và sống hài hòa với thiên nhiên, phát triển dựa trên hệ sinh thái phải trở thành triết lý cho mục tiêu phát triển bền vững và giải quyết tận gốc các vấn đề suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường hiện nay;

2) Tích cực tham gia hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường;

3) Tăng cường nguồn nhân lực và năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường các cấp, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý môi trường các cấp;

4) Vận động xã hội hóa để tăng cường đầu tư và đa dạng hóa nguồn tài chính cho công tác bảo vệ môi trường;

5) Tăng cường cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra công tác bảo vệ môi trường đối với các dự án đầu tư, các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu phế liệu, tăng cường công tác bảo vệ môi trường các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề;

6) Xã hội hóa việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ trong bảo vệ môi trường;

7) Đẩy mạnh công tác vận động, truyên truyền và giáo dục về bảo vệ môi trường, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế ít chất thải, đồng thời phát hiện, nêu gương, nhân rộng các điển hình, mô hình tốt, cách làm hay để tạo chuyển biến tích cực trong toàn xã hội.

Đối với vấn đề nhóm yếu thế

Ưu tiên tham gia phản biện hoàn thiện chính sách và luật pháp nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu, nguyện vọng, đặc biệt là sinh kế của nhóm yếu thế. Chính sách và luật pháp cần hướng tới bảo vệ, giúp đỡ nhóm yếu thế hòa nhập với cộng đồng và giúp họ phát triển sinh kế. Đồng thời, bảo vệ các quyền của nhóm yếu thế, giúp họ tránh được những rủi ro, sự đe dọa, hiểm họa trong cuộc sống.

Quá trình triển khai các chính sách, luật pháp với nhóm yếu thế cần mềm dẻo, linh hoạt, tránh các thủ tục rườm rà. Cần chú trọng đào tạo nghề cho nhóm yếu thế để giúp họ ổn định đời sống và có sinh kế bền vững, lâu dài; xây dựng những chương trình giúp nhóm yếu thế thích ứng với những biến động của xã hội.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tuyên truyền, vận động cộng đồng xã hội nâng cao nhận thức, trách nhiệm giúp đỡ nhóm yếu thế. Cộng đồng xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chủ trương xã hội hóa đối với việc chăm sóc, bảo vệ người yếu thế. Do đó, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục cộng đồng xã hội để hiểu rõ hơn về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước với nhóm yếu thế. Từ đó, quan tâm giúp đỡ và không có thái độ phân biệt, định kiến với những người yếu thế. Cần đa dạng các hình thức và dịch vụ giúp đỡ nhóm yếu thế trong tiếp cận các nguồn sinh kế phù hợp với điều kiện sở tại.

Các nhóm yếu thế còn có nhiều khó khăn về nhận thức, tình cảm và hành vi. Có nhiều người còn tự ti, mặc cảm, một số còn trông chờ ỷ lại vào sự quan tâm của Nhà nước và các tổ chức xã hội. Trong khi đó, xã hội cũng có những định kiến về nhóm yếu thế, mặc dù đã có công ước quốc tế và quy định của pháp luật không được phân biệt đối xử với người yếu thế. Song trên thực tế, những người yếu thế vẫn bị phân biệt đối xử nên càng gặp nhiều khó khăn trong việc nâng cao đời sống hàng ngày. Đây là một trong những trở ngại lớn, khiến nhóm yếu thế gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận với các nguồn vốn sinh kế để thoát nghèo.

Vì vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần vận động toàn xã hội hỗ trợ nhiều hơn nữa để nhóm yếu thế tự tin, vượt qua khó khăn để vươn lên trong cuộc sống.

Hơn 35 năm đổi mới cho thấy những kết quả đạt được trong việc giải quyết các vấn đề xã hội thể hiện sự nỗ lực vượt bậc của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, trong đó có vai trò quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, nhất là những nhóm yếu thế. Đồng thời, phản ánh truyền thống nhân văn, nhân nghĩa của dân tộc và bản chất của chế độ ta luôn lấy con người làm trung tâm, “không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Việc giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Chú thích:

1. Phạm Di: Vấn đề xã hội - Lý thuyết và ứng dụng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập II, tr. 92-93.

3.  Xem https://danso.org/viet-nam.

4.  Tổng cục Thống kê: Thông cáo báo chí tình hình lao động, việc làm năm 2022.

5.  Xem Lưu Ly: Thành tựu về xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam, https://www.xaydungdang.org.vn

6.  Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê: Kết quả điều tra 

Trần Quốc Dân - Nguyên Giám đốc Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật


Các tin tức khác
danh mục tin tức
Kết quả bình chọn Hàng Việt Nam được người tiêu dùng yêu thích 2020