|
Đoàn Chủ tọa Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN) |
1. Chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Trong hệ thống chính trị nước ta, để đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng và thực thi quyền lực của Nhà nước luôn đúng đắn, thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, cần có cơ chế để đảm bảo các chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng phải được sự phản biện; quyền lực nhà nước phải được giám sát. Ở nước ta, sự giám sát, phản biện đó, một mặt mang tính nhà nước, được tiến hành từ các cơ quan quyền lực nhà nước; mặt khác, không kém phần quan trọng, nằm ở xã hội, mang tính nhân dân, mà một trong những hình thức giám sát đó là giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Điều 9 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Điều 2 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên… giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước".
Chức năng giám sát của Mặt trận còn được quy định trong nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh khác như trong Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh Thanh tra, Pháp lệnh Giải quyết các vụ án dân sự...
Việc giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội là đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, của công dân, của các cộng đồng; các giá trị phổ quát của dân tộc và nhân loại như: công bằng, bình đẳng, nhân đạo, dân chủ và pháp quyền, bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước khi ban hành phản ánh đúng và đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân chứ không phải là ý chí, nguyện vọng của cá nhân, nhóm người hay lực lượng xã hội riêng biệt nào.
Để thực hiện chức năng giám sát này, Điều 9 Hiến pháp năm 1992 và khoản 1 Điều 12 của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định đối tượng giám sát của Mặt trận bao gồm: Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước; giám sát đại biểu dân cử; giám sát cán bộ, công chức nhà nước... Như vậy, đối tượng giám sát của Mặt trận rộng hơn rất nhiều so với đối tượng giám sát của Quốc hội, HĐND; rộng hơn đối tượng kiểm sát của Viện kiểm sát và đối tượng thanh tra của Thanh tra Nhà nước.
Xuất phát từ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận trong hệ thống chính trị, hoạt động giám sát xã hội của Mặt trận tập trung chủ yếu vào các nội dung: giám sát việc xây dựng, ban hành, thi hành pháp luật và bảo vệ pháp luật của các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp); tập trung vào những quy định pháp luật có liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, của các giai cấp, tầng lớp xã hội, các đối tượng chuyên biệt do Mặt trận trực tiếp vận động; pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp và các tổ chức thành viên.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện chức năng giám sát xã hội phù hợp với tính chất tổ chức và hoạt động của các tổ chức này, tức là mang tính nhân dân, tính quần chúng.
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Điều 12 quy định các hình thức giám sát của Mặt trận bao gồm:
+ Vận động nhân dân giám sát theo trách nhiệm và quyền hạn của mình.
+ Tham gia với các cơ quan quyền lực nhà nước (Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, các Ủy ban, Hội đồng của Quốc hội; HĐND) thực hiện sự giám sát.
+ Tự mình thực hiện quyền giám sát.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam độc lập tổ chức các hoạt động giám sát; vận động nhân dân tham gia giám sát; phối hợp cùng cơ quan quyền lực nhà nước cùng giám sát hoặc độc lập giám sát theo chức năng, nhiệm vụ của mình với cơ chế là theo dõi, phát hiện, nhận xét, phản biện và kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm xem xét những kiến nghị của Mặt trận, giải quyết, xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm pháp luật và thông báo kết quả xử lý cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo quy định của pháp luật; lựa chọn tiếp thu những sáng kiến pháp luật của Mặt trận; phối hợp với Mặt trận cùng cấp hướng dẫn, giúp đỡ, động viên và bảo vệ công dân khi họ thực hiện quyền giám sát của mình…
Với tư cách là tổ chức liên minh chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng và tập hợp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân, hoạt động giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc đối với các cơ quan nhà nước là một trong phương thức quan trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia quản lý xã hội và kiểm soát quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước càng được kiểm soát thì dân chủ càng được mở rộng và bệnh quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân càng sớm bị đẩy lùi.
Giám sát là một chức năng quan trọng của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn chúng ta đang tích cực xây dựng nhà nước pháp quyền, dân chủ hóa đời sống xã hội.
2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thời gian tới
a. Xác định đúng đắn vai trò của Đảng với tư cách vừa là người lãnh đạo, vừa là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực hiện chức năng phản biện xã hội
Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một bộ phận hợp thành, vừa là tổ chức lãnh đạo hệ thống ấy. Đảng vừa là thành viên của Mặt trận, vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Trong thực tiễn, một số cấp uỷ Đảng chỉ mới chú ý đến vai trò, trách nhiệm của người lãnh đạo mà ít chú ý đến vai trò, trách nhiệm Đảng là một thành viên. Đảng lãnh đạo Mặt trận nhưng nằm trong Mặt trận chứ không đứng trên Mặt trận. Đây chính là yếu tố có vai trò quan trọng, mang ý nghĩa then chốt làm nên bản sắc mới trong quan điểm chỉ đạo và đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói chung và chức năng giám sát, phản biện xã hội nói riêng.
Là người lãnh đạo, Đảng cần thực hiện đúng vai trò tiên phong của mình là đề ra đường lối, là hạt nhân, đứng ra tập hợp lực lượng, thực hiện liên minh chính trị, đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Bằng công tác tuyên truyền vận động, Đảng tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, hưởng ứng của đông đảo quần chúng. Đảng còn lãnh đạo thông qua sự tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong vai trò là thành viên của Mặt trận, Đảng phải tích cực và bình đẳng như tất cả các thành viên khác. Đảng nằm ở trong Mặt trận, phải tạo được sức hút của mình đối với các thành viên khác, tạo ra sự đồng thuận trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách do Đảng đề ra. Đảng tôn trọng nguyên tắc làm việc của Mặt trận, gương mẫu thực hiện Điều lệ và các chương trình công tác của Mặt trận; lắng nghe tiếng nói xây dựng cũng như phản biện trong Mặt trận đối với các chủ trương, chính sách để kịp thời điều chỉnh, hoàn thiện.
b. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, góp phần kiểm soát, giám sát quyền lực
Là một bộ phận của hệ thống chính trị, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội không thể tách rời khỏi sự đổi mới của hệ thống chính trị và quá trình đổi mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tất cả phải nhằm mục tiêu phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của mỗi tổ chức, tạo nên sức mạnh tổng hợp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta hiện nay đang đặt ra yêu cầu phải phát huy đầy đủ quyền làm chủ, tiềm năng sáng tạo của các tầng lớp nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Quá trình đổi mới cần phải không ngừng hoàn chỉnh cơ chế phối hợp và bảo đảm các điều kiện cần thiết để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; tích cực tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật; tập hợp, động viên nhân dân đồng tâm, hiệp lực thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của Nhà nước; đồng thời làm tốt vai trò giám sát đối với cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, góp phần xây dựng và bảo vệ chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Đảng đã xây dựng và ban hành kịp thời các nghị quyết để định hướng lãnh đạo cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa thành các văn bản pháp luật để tổ chức đưa nghị quyết vào cuộc sống. Định kỳ 5 năm, Trung ương chỉ đạo sơ kết và 10 năm chỉ đạo tổng kết, đánh giá kết quả việc tổ chức thực hiện nghị quyết ở các cấp, các ngành. Việc đổi mới nội dung và hình thức kiểm tra, sơ kết, tổng kết các nghị quyết chuyên đề của các cấp ủy đảng, góp phần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội để kiểm soát, giám sát quyền lực của các cơ quan nhà nước.
Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, “Về quy chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”. Trên cơ sở Quy định 217-QĐ/TW, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đã xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát có trọng tâm, trọng điểm một số lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến cuộc sống người dân, như giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, các chính sách, pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân; việc thu chi các quỹ do nhân dân đóng góp, kinh phí xây dựng nông thôn mới, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp, các ngành… Đảng có chủ trương thông qua hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để động viên những người ngoài Đảng tham gia chính quyền bằng cách tự ứng cử; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội thường xuyên sâu sát cơ sở, lắng nghe kịp thời tâm tư, nguyện vọng, đề xuất, kiến nghị chính đáng, hợp pháp của nhân dân để tổng hợp phản ánh cho cấp ủy đảng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân, chính quyền các cấp xem xét, giải quyết. Thực hiện các quy định của Đảng như, Quy định số 11-QĐ/TW ngày 18-2-2019 “Về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân”… để giám sát việc thực hiện.
c. Nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ, cộng tác viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tương ứng với yêu cầu giám sát, phản biện xã hội
Công tác cán bộ của Mặt trận không chỉ là việc riêng của Mặt trận mà là việc chung mà Đảng, Nhà nước cần quan tâm.
Đổi mới công tác cán bộ bao gồm đổi mới từ nhận thức đến quản lý, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ… Người cán bộ Mặt trận trong điều kiện hiện nay không chỉ có phẩm chất, đạo đức, năng lực mà cần phải có các yếu tố khác như: sự nhạy cảm chính trị, trình độ học vấn, khả năng nắm bắt khoa học công nghệ, khả năng xử lý tình huống…
Thứ nhất, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn cán bộ Mặt trận có tâm huyết, năng lực, biết cách vận động, thuyết phục các tầng lớp nhân dân, biết khai thác và nhân lên những điểm tương đồng và tôn trọng, chấp nhận những điểm khác biệt của các tầng lớp nhân dân.
Thứ hai, chú trọng đội ngũ cán bộ ở các cấp, nhất là cán bộ chủ chốt và cán bộ cấp cơ sở, đặc biệt là cán bộ ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có đạo. Có chính sách ưu tiên đối với cán bộ Mặt trận ở những vùng này. Phát triển cả về số lượng và chất lượng, đội ngũ cán bộ chuyên trách. Mở rộng, sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ không chuyên trách.
Thứ ba, quan tâm nâng cao đời sống của cán bộ Mặt trận.
Thứ tư, chú trọng đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận của Mặt trận. Đây là vấn đề mới mẻ, nhưng cần thiết đối với việc nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận, nâng cao trình độ và chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ Mặt trận. Mặt trận cần sớm có kế hoạch nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, đặc biệt nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề của thực tiễn cuộc sống hiện nay đang đặt ra.