Tác động của các yếu tố truyền thống đến xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở

12/05/2010 - 12:00 AM
Truyền thống là những tục lệ, trật tự, quy tắc ứng xử, phong tục tập quán đã đạt tới giá trị chuẩn mực trên các lĩnh vực của lối sống, được truyền từ đời này sang đời khác.

Mỗi dân tộc đều có truyền thống của mình. Truyền thống là dòng chảy liên tục nảy sinh, tồn tại, phát triển trong suốt tiến trình dựng nước, giữ nước của cha ông ta. Truyền thống là nền tảng của hiện tại, là bệ đỡ cho tương lai. Đây là cơ chế tích lũy, lưu truyền, chắt lọc, chuyển giao, tiếp nối từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ đời này qua đời khác, từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác. Truyền thống là cái tồn tại mãi với dân tộc “sau tất cả những gì đã mất trong quá trình vận động”.

Con người phải biết quá khứ của mình, mỗi dân tộc phải biết lịch sử của mình. Đánh mất quá khứ, mất truyền thống tức là đã đánh mất chính mình.

Trong các truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, nổi bật là truyền thống yêu nước. Dân tộc nào cũng yêu nước, tuy nhiên yêu nước ở Việt Nam lại có những nét độc đáo riêng. Lịch sử chống giặc ngoại xâm, lịch sử mấy ngàn năm, nhưng tiếng súng mới sững lại cách đây khoảng 30 năm. Yêu nước đã trở thành tiêu chí để đo phải, trái, tốt, xấu, nên làm hay không nên làm. Yêu nước đã trở thành thước đo giá trị nhân phẩm con người. Yêu nước đã chi phối mỗi con người Việt Nam trong suy nghĩ, tư duy và hành động.
Ngoài ra chúng ta còn nhiều truyền thống quý giá khác như:

+ Truyền thống cố kết cộng đồng sâu sắc. Cộng sinh, cộng hưởng, cộng tồn; gia đình, làng, nước cố kết tác động đến từng con người và từng tổ chức trong cộng đồng.
+ Cần cù dũng cảm, sáng tạo trong lao động.
+ Lòng nhân ái “thương người như thể thương thân”.
+ Lối sống trung thực, tình nghĩa, thủy chung, khiêm tốn, giản dị, tế nhị.
+ Hiếu học
+ Lối sống thanh lịch, nét đặc sắc của người Thăng Long - Hà Nội...

Những đặc trưng cơ bản trên của truyền thống Việt Nam đã được hun đúc kết tinh trong suốt hơn 4000 năm lịch sử. Dân tộc Việt Nam đã phát huy mọi sức mạnh, tinh thần, ý chí quật cường của mình trong đấu tranh với thiên nhiên, với kẻ thù xâm lược, với xã hội và với chính bản thân mình để hình thành nên những đặc trưng phẩm chất truyền thống. Đến lượt nó, những phẩm chất truyền thống được hình thành, phát triển lại hun đúc, phát triển bản lĩnh Việt Nam và ý chí Việt Nam.

Ngoài những giá trị truyền thống chung, ở Thăng Long - Hà Nội còn được ghi nhận: nét đặc sắc nổi trội là lối sống: thanh lịch.

Đặc trưng nổi trội của người Hà Nội được đúc kết qua hàng ngàn năm lịch sử đó là: Thanh lịch, từ điển tiếng Việt (xuất bản lần thứ 2 - NXB Khoa học xã hội, H, 1997, tr.716) có ghi: Thanh lịch là “nhã nhặn và lịch sử”. Như vậy, người thanh lịch là người “nhã nhặn và lịch sử”.

Trong hầu hết các nghiên cứu vừa qua, các tác giả đều khẳng định thanh lịch là nét đẹp truyền thống của người Hà Nội từ xưa đến nay. Thanh lịch không chỉ là biểu hiện bên ngoài mà còn chứa đựng cái cốt lõi của bản sắc dân tộc (GS Vũ Khiêu). Hơn nữa có một nếp sống thanh lịch truyền thống mang sắc thái riêng Hà Nội đích thực (Giang Quân: Giao thoa thanh lịch truyền thống với văn minh hiện đại trong nếp sống người Hà Nội hôm nay).

Nói đến “thanh” là đề cập tới thanh cao, thanh khiết, thanh bạch, thanh liêm, thanh đạm, thanh tịnh, thanh tú, thanh thản trong lối sống, trong tình cảm, tâm hồn; là sự thanh nhã (nhã nhặn) trong ứng xử, cử chỉ, hành động, nói năng; là thanh trong, thanh thoát, cao đẹp trong suy nghĩ, tư duy, tư tưởng.

Còn nói đến “lịch”, phải chăng trước hết là “lịch duyệt”. Từ điển tiếng Việt viết: lịch duyệt - con người lịch duyệt: con người từng trải nhiều, trông thấy và biết nhiều, con người hiểu biết. Lịch còn là lịch lãm, lịch thiệp, lịch sự: biết cách giao thiệp, xử thế theo phép tắc được xã hội công nhận và ca ngợi, khiến người có quan hệ với mình được vừa lòng vì ngôn ngữ và cử chỉ của mình. Như vậy ở con người cần cả “thanh” và “lịch”.

Thanh lịch của người Hà Nội đã bao quát một lối sống đẹp, một phong cách sống đẹp từ trong gia đình đến ngoài xã hội; từ ăn ở đến ứng xử người - người, toát lên trong sự tự trọng và tôn trọng mọi người để người khác tôn trọng mình.

Cái thanh lịch của người Hà Nội trước hết ở tiếng nói. Ngôn ngữ Hà Nội thành ngôn ngữ chuẩn quốc gia: phản ánh chính xác, phát âm mẫu mực, sử dụng uyển chuyển, mềm dẻo, hoạt bát, lưu loát, nói có hồn, lôi cuốn, có duyên.

- Người thanh tiếng nói cũng thanh
- Người khôn tiếng nói dịu dàng dễ nghe

Tiếng nói phát ra từ người Hà Nội là tiếng nói tự trọng, tôn trọng người nghe: “Mềm mỏng mà không yếu ớt, tự tin mà không kiêu ngạo, trí tuệ mà không khoe khoang, chắt lọc mà không kiêu kì, nhanh nhạy mà không nôn nóng, giản dị mà không đơn giản, kính trọng mà không nịnh bợ”.

Cách nói như vậy đã loại trừ sự thô thiển, tùy tiện, tục tằn, xô bồ... Bởi vậy, trên đường phố hiện nay, ta còn không vui khi nghe những lời thô tục... cái đó không phải là tiếng nói người Hà Nội.

Trong xưng hô, người Hà Nội phân biệt tuổi tác, trọng già, quý trẻ, đi thưa, về gửi, biết chào, biết cảm ơn, xin lỗi.

Thanh lịch của người Hà Nội không chỉ ở nói, mà điều quan trọng hơn là nói đi liền với làm, với hành động. Người Hà Nội luôn luôn ý thức cao trong làm việc tốt, làm việc thiện, làm vì người thân, vì cộng đồng. Làm việc tốt được thể hiện phổ biến ở công việc hàng ngày, việc trong nhà, việc thôn xóm, việc tổ dân phố, việc cơ quan, việc nước. Đây là nét chủ đạo ở người Hà Nội. Tuy nhiên, thời gian qua, chúng ta hay bắt gặp đâu đó trên đường phố Hà Nội có những người, có những việc không đẹp mắt, thậm chí có những việc làm ta nhức nhối như: đeo bám theo người nước ngoài để bán hàng, ăn xin, trẻ lang thang, tiểu tiện tùy tiện hay các hành vi tỏ tình giữa ban ngày của không ít các đôi nam nữ nơi công viên, nơi công cộng, tình trạng thích chen lấn, vứt rác bừa bãi, đổ trộm phế thải ra đường, đua xe trái phép cùng các tệ nạn xã hội... Đây là những việc làm xấu, phản thanh lịch mà chúng ta phải kiên quyết khắc phục.

Tuy nhiên, trong truyền thống có những ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức phong kiến, kiểu ứng xử theo lối sản xuất nhỏ... đã tác động không thuận chiều, gây trở ngại cho việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.

Đương nhiên, trong xã hội phong kiến Việt Nam có đạo đức của giai cấp phong kiến nhưng cũng có đạo đức của những người lao động trong xã hội phong kiến. Hai nền đạo đức này dựa trên những lợi ích cơ bản đối nghịch nhau, do đó đã đấu tranh quyết liệt với nhau.

Hai nền đạo đức này không có bức tường ngăn cách tuyệt đối, chúng ảnh hưởng nhau nhưng vẫn khác nhau về chất. Đó là đạo đức của giai cấp phong kiến thống trị và đạo đức của nhân dân lao động trong xã hội phong kiến.

Có thể nhận thấy một sự đối lập rõ rệt khi đem so sánh những đặc trưng của đạo đức truyền thống với đặc trưng đạo đức phong kiến.

+ Đạo đức truyền thống là vị tha thì ngược lại đạo đức phong kiến là vị kỷ.

+ Đạo đức truyền thống là tinh thần bình đẳng thì đạo đức phong kiến là đẳng cấp, tôn ti trật tự nặng nề.

+ Đạo đức truyền thống là tôn trọng dân chủ thì đạo đức phong kiến là gia trưởng.

+ Đạo đức truyền thống có tính cộng đồng cao thì đạo đức phong kiến là bè phái, cục bộ.

+ Đạo đức truyền thống là yêu mến con người, tôn trọng phụ nữ và lớp trẻ thì đạo đức phong kiến lại coi khinh người lao động (nhất là lao động chân tay), coi khinh phụ nữ và coi thường lớp trẻ.

+ Đạo đức truyền thống ca ngợi sự trung thực, giản dị thì đạo đức phong kiến lại ngạo mạn trong sự xa hoa và nặng thói “đạo đức giả”...

Như vậy, có thể nhận định rằng: đạo đức truyền thống và đạo đức phong kiến (trong giai đoạn xã hội phong kiến) không tách rời nhau mà sự liên hệ, tác động nhau, nhưng về cơ bản đạo đức phong kiến đã đối lập với đạo đức truyền thống.

Những nét tiêu cực hạn chế của truyền thống phong kiến hiện nay vẫn đang ảnh hưởng đáng kể đến đời sống văn hóa ở cơ sở.

Bên cạnh những yếu tố do ảnh hưởng của đạo đức phong kiến, cần phải kể đến thói tự do, tùy tiện, vô kỷ luật, tư duy và tầm nhìn hạn hẹp, cách ứng xử đố kỵ, “xấu đều hơn tốt lỏi”, thiếu bản lĩnh, chính kiến... của kiểu sản xuất nhỏ, thực sự cũng đang tác động không thuận chiều tới xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.

Với người Hà Nội, khoảng 3/4 người nhập cư trong vòng 3,4 thập kỷ gần đây, từ nhiều làng quê của các tỉnh khác nhau, Hà Nội mở rộng, sẽ có tới 88,3% diện tích và trên 62,5% dân số sống ở vùng nông thôn.

Không phải ngẫu nhiên, mà trước đây Hoài Thanh đã nói sống ở phố mà “mỗi người Việt Nam đều có một người nhà quê”. Vấn đề phải làm gì và làm như thế nào để hình thành một nếp sống đô thị.

Hay nói như kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính: “Hà Nội có rất nhiều đường, phố từ “làng” chuyển lên. Quá trình này đã diễn ra từ rất lâu và bây giờ vẫn đang tiếp diễn. Bản thân tôi là người Hà Nội, gia đình chúng tôi đã ở Hà Nội rất lâu đời, nhưng tôi vẫn luôn nhận thấy sự thôn quê trong mỗi chúng tôi. Mỗi một gia đình Hà Nội cũng vậy, luôn đặt một chân ở thôn quê. Có lẽ đặc trưng của mỗi chúng ta vẫn là những người nông dân ở chung với nhau trong một khu đô thị”. Hoặc như nhận xét của nghệ sĩ người Anh Barnaby: “So với một làng quê thì thành phố có rất nhiều lợi thế về mặt vật chất, nhưng đó cũng chính là điểm yếu của nó, khi mối tương tác giữa người với người, giữa mỗi cá nhân với cộng đồng giảm thiểu đi”.

Khi nghiên cứu đặc trưng người Hà Nội, song song với việc làm rõ những phẩm chất tốt đẹp, các tác giả cũng đồng thời chỉ ra những mặt hạn chế trong tính cách và trong nếp sống người Hà Nội. Đó là người Hà Nội đề cao quá mức tính hàn lâm, bác học, nặng về lý thuyết, khiến sự học để áp dụng vào thực tế bị coi nhẹ; người Hà Nội cẩn thận, chắc chắn, thành ra dè dặt, thiếu quyết đoán, chậm đổi mới, không dám đột phá làm ăn lớn; Quá kín đáo, giữ gìn, dẫn đến khách sáo, thiếu chân tình, thiếu thẳng thắn và trong một chừng mực nhất định, có biểu hiện coi thường tỉnh lẻ. Quá tự tôn, sĩ diện thành ra không dám nhìn thẳng vào chấp nhận sự thật, ưa nêu thành tích hơn nêu khuyết điểm....

Đây cũng là những yếu tố tác động không thuận tới xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.

Các tin tức khác
danh mục tin tức
Kết quả bình chọn Hàng Việt Nam được người tiêu dùng yêu thích 2020